Đánh tên loài cần tìm vào ô bên dưới để tìm kiếm

Hiển thị các bài đăng có nhãn Heo Nuôi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Heo Nuôi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

Cách phòng bệnh Phó thương hàn trên Heo

Cách phòng bệnh Phó thương hàn trên Heo


Cách phòng bệnh phó thương hàn trên Heo by Sở NNBT | Cach phong benh pho thuong han tren heo

1. Đặc điểm và nguyên nhân bệnh
- Bệnh phó thương hàn là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Samolella Choleraesuis (vi khuẩn phó thương hàn heo) gây ra. Heo ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh, phổ biến là heo con từ cai sữa đến 4 tháng tuổi, ít khi xảy ra ở heo đến 6 tháng tuổi (chỉ thấy mắc bệnh ở thể mãn tính).


- Vi khuẩn gây bệnh có khả năng tồn tại ngoài môi trường, nếu heo gặp phải điều kiện bất lợi gây stress như thời tiết thay đổi lúc giao mùa, lúc cai sữa cho heo con, vận chuyển heo đi xa, nhập đàn, thay đổi thức ăn một cách đột ngột, thức ăn bị nấm mốc, do ký sinh trùng,…lúc này vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cơ thể heo lây qua đường tiêu hóa (gây bệnh cấp tính trên heo con). Ngoài ra heo nái mang thai có thể truyền bệnh cho bào thai.

2. Cơ chế tóm tắt quá trình sinh bệnh như sau
Thời kỳ nung bệnh từ 3 - 6 ngày, nhưng có khi kéo dài đến tuần lễ hay một tháng tùy thuộc vào số lượng vi khuẩn xâm nhập, độc lực của vi khuẩn cũng như sức đề kháng của heo. Vi khuẩn Samolella Choleraesuis vào cơ thể theo đường tiêu hóa vào hầu, xâm nhập vào ruột, sinh sản và chui qua niêm mạc ruột, dạ dày gây thủy thủng, hoại tử cục bộ, xuất huyết, gây viêm ruột, viêm dạ dày, sau đó vi khuẩn xâm nhập vào các tổ chức lâm ba gây phản ứng hạch viêm, sưng hạch và từ đó vào máu gây bại huyết. Ở những gia súc khỏi bệnh, vi khuẩn có khuynh hướng cư trú ở một số phủ tạng như gan, hạch lâm ba,…

3. Triệu chứng
a) Thể cấp tính
- Heo sốt cao từ 41 – 41,5 độ C. Giai đoạn đầu heo táo bón, bí đại tiện, nôn mửa. Sau đó, heo tiêu chảy phân lỏng màu vàng có mùi rất thối, đôi khi có lẫn máu, con vật kêu la đau đớn do viêm dạ dày, viêm ruột nặng.

- Heo thở gấp, ho, suy nhược do bị mất nước. Cuối thời kỳ bệnh, da tụ máu thành từng nốt, đỏ ửng rồi chuyển thành màu tím xanh ở tai, bụng, mặt trong đùi ngực. Bệnh tiến triển trong 2 - 4 ngày, heo gầy còm, còi cọc, tiêu chảy nhiều rồi chết, với biểu hiện ở bụng và chân có vết tím bầm.

b) Thể mãn tính
- Heo gầy yếu dần, ăn uống giảm sút, chậm lớn thiếu máu, da xanh, có khi trên da có những mảng đỏ hoặc bầm tím. Heo tiêu chảy phân lỏng vàng rất hôi thối.

- Thở khó, ho, sau khi vận động con vật thường mệt nhọc, đi lại khó khăn. Bệnh kéo dài trong vài tuần, một số có thể khỏi bệnh nhưng chậm lớn.

4. Bệnh tích
a) Thể cấp tính
- Lách sưng to, đặc biệt là 1/3 phần ở giữa sưng to hơn, dai như cao su màu xanh thẩm.

- Hạch lâm ba sưng, tụ máu, xuất huyết.

- Gan tụ máu có nốt hoại tử bằng hạt kê.

- Thận có những điểm hoại tử ở vỏ thận.

- Phổi tụ máu và có các ổ viêm, ruột sưng nhiểu nước.

- Niêm mạc dạ dày và ruột viêm đỏ, có điểm xuất huyết, đôi khi có vết loét như hạt đậu.

b) Thể mãn tính
- Bệnh tích chủ yếu ở dạ dày và ruột.

- Niêm mạc dạ dày và ruột viêm đỏ từng đám. Ở ruột già và ruột non có nhiều đám loét bờ cạn, những đám loét này phủ fibrin.

- Lách không sưng, đôi khi có những nốt hoại tử to bằng quả mận.

- Gan có nốt viêm hoại tử màu xám bằng hạt đậu.

- Phổi viêm sưng có ổ hoại tử màu vàng xám.

5. Phòng bệnh
- Mua heo từ nơi không có bệnh, cách ly và theo dõi ít nhất 2 tuần rồi mới nhập đàn.

- Vệ sinh phòng bệnh: định kỳ sát trùng chuồng trại, máng ăn, máng uống, đảm bảo cung cấp đủ thức ăn và uống sạch, không cho heo ăn thức ăn hôi thiu, ẩm mốc.

- Nên áp dụng biện pháp cùng vào – cùng ra, chuồng sẽ được để trống khoảng 5 - 7 ngày.

- Phải sát trùng chuồng trại và dụng cụ thật kỹ sau mỗi lứa heo.

- Phòng bệnh bằng vaccine: Định kỳ tiêm phòng vaccin phó thương hàn cho heo con và heo thịt theo quy trình tiêm phòng vaccine tại địa phương. Riêng đối với heo nái, nên tiêm trước khi phối giống 10 - 15 ngày là tốt nhất, để heo con sinh ra có khả năng miễn dịch do sữa mẹ truyền sang chống bệnh trong thời gian đầu.

6. Điều trị
- Có thể sử dụng một trong các loại thuốc kháng sinh sau:
+ Clorfenicol, liều 1ml/20 kg thể trọng.
+ Gentamycine 20 - 50 mg/kg, 2 lần/ngày.
+ TyloPC, TyloDC, liều 1 - 2 ml/10 kg thể trọng.

- Kết hợp thuốc bổ trợ:
+ Vitamin B1 2,5%, liều 5 ml/con/2 - 3 tháng tuổi.
+ Vitamin C 5%, liều 5 - 10 ml/con/2 - 3 tháng tuổi, chia làm 2 lần/ngày.

- Liệu trình điều trị 3 - 5 ngày liên tục.

- Ngoài ra, dùng các loại bổ sung chất điện giải và mất nước như dung dịch glucose 5% (sinh lý ngọt), chlorua natri 0,9% (sinh lý mặn). Liều tiêm cho cả 2 dung dịch là 200 - 300 ml/con/lần/ngày (có thể tiêm riêng từng loại dung dịch hoặc pha chung 1 lần dung dịch tiêm sinh lý ngọt và sinh lý mặn, theo tỷ lệ 1/1).

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2012

Cách phòng bệnh dịch tả trên Heo

Cách phòng bệnh dịch tả trên Heo


Cách phòng bệnh dịch tả trên heo by Sưu Tầm | Cach phong benh dich ta tren heo

Dịch tả heo là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút Pestivirut gây ra, bệnh xảy ra trên heo ở mọi lứa tuổi nhưng nặng nhất là heo con theo mẹ và heo sau cai sữa. Bệnh tập trung nhiều vào thời điểm chuyển mùa, tỷ lệ bệnh và chết rất cao. Vì vậy, bà con chăn nuôi cần nhận biết chính xác và đầy đủ về bệnh để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.


1. Cách sinh bệnh
- Vi rút xâm nhập chủ yếu qua: đường tiêu hóa, niêm mạc, vết thương ở da và một phần qua hệ thống hô hấp.

- Bệnh lây trực tiếp từ con bệnh sang con khỏe, qua thức ăn, nước uống; gián tiếp qua các chất bài tiết, dụng cụ chăn nuôi, phương tiện vận chuyển hay do các động vật khác mang mầm bệnh truyền lây.

2. Triệu chứng bệnh
Tùy thuộc vào độc lực, số lượng vi rút và sức đề kháng của con vật mà thời gian nung bệnh có thể kéo dài từ 3 - 7 ngày và bệnh có thể xuất hiện ở một trong 3 thể:
- Thể quá cấp tính (còn gọi là bệnh dịch tả heo trắng): Bệnh xuất hiện đột ngột, không có triệu chứng ban đầu, heo khỏe mạnh tự nhiên ủ rũ, bỏ ăn, sốt cao 41 - 42 độ C, phần da mỏng đỏ ửng, con vật dẫy dụa rồi chết nhanh trong vòng 1 - 2 ngày, tỷ lệ chết có thể 100%.

- Thể cấp tính:
+ Ủ rũ, kém ăn rồi bỏ ăn, nằm chồng lên nhau sốt cao 41- 42 độ C kéo dài đến lúc gần chết.
+ Mắt viêm đỏ có ghèn, chảy nước mũi, miệng có loét phủ nhựa vàng ở lợi, chân răng, hầu; heo thường bị ói mửa, thở khó, nhịp thở rối loạn, đuôi cụp, lưng cong, đặc biệt, heo ngồi như chó ngồi và ngáp.
+ Lúc đầu táo bón sau đó tiêu chảy phân vàng, vàng nâu hoặc nâu đỏ (lẫn máu), phân bết vào mông và đuôi có mùi thối khắm.
+ Trên da nhất là vùng da mỏng có nhiều điểm xuất huyết lấm tấm như ở tai, mõm, bụng và 4 chân.
+ Vào giai đoạn cuối của bệnh, heo bị liệt 2 chân sau đi loạng choạng hoặc không đi được. Đối với heo nái mang thai dễ bị sẫy thai.
+ Trong trường hợp ghép với các bệnh khác như: phó thương hàn, tụ huyết trùng, tai xanh heo (PRRS), E.coli,. . . v.v thì các triệu chứng trên trầm trọng hơn và tỷ lệ chết có thể lên đến 100%.

- Thể mãn tính: heo tiêu chảy nhiều dễ dẫn đến gầy yếu, heo chết do kiệt sức; một số trường hợp heo có thể khỏi bệnh nhưng vẫn mang mầm bệnh.

3. Bệnh tích
- Thể quá cấp: không có bệnh tích đặc trưng.

- Thể cấp tính:
+ Các cơ quan nội tạng bại huyết, xuất huyết nặng.
+ Hạch: tất cả đều sưng, tụ huyết và xuất huyết.
+ Ruột có nốt loét ở đường tiêu hóa, niêm mạc miệng, lưỡi tụ máu, dạ dày bị tụ huyết, xuất huyết thường nặng ở đường cong lớn, ở van hồi manh tràng xuất huyết có những vết loét hình cúc áo, có vòng tròn đồng tâm bờ vết loét cao phủ nhựa vàng.
+ Phổi bị xuất huyết, tụ huyết, nhiều vùng bị gan hóa và hoại tử.
+ Tim bị xuất huyết ở mỡ vành tim, ở ngoại tâm mạc, gan bị tụ huyết xuất huyết, túi mật có những điểm xuất huyết.
+ Lách có hiện tượng nhồi huyết ở rìa làm cho lách có hình răng cưa.
+ Thận có nhiều điểm xuất huyết lấm tấm như đầu đinh ghim ở vỏ thận và tủy thận, bể thận ứ máu hoặc có cục máu, niêm mạc bàng quang bị tụ huyết, xuất huyết.

- Thể mãn tính: thường thấy ruột có những vết loét lõm sâu, bờ cao phủ nhựa vàng, phổi có thể bị viêm dính vào lồng ngực.

- Tuy nhiên, thực tế ở nước ta cho thấy bệnh thường ghép với một số bệnh khác nên triệu chứng và bệnh tích có thay đổi tùy theo ghép với bệnh nào. Mặt khác, do đã tổ chức tiêm phòng vắc xin nhiều năm, nên nhiều trường hợp không phát hiện đầy đủ các bệnh tích điển hình nêu trên.

4. Các giải pháp phòng ngừa
1. Áp dụng các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi.
2. Chọn con giống phải có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, đạt tiêu chuẩn chất lượng, được tiêm phòng đầy đủ vắc xin phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm theo quy định.
3. Thực hiện “3 không”: không dấu khi heo mắc bệnh, không bán chạy heo bệnh và không vứt xác heo chết bừa bãi.
4. Phòng bệnh bằng vắc xin: tiêm vắc xin phòng bệnh dịch tả heo định kỳ mỗi năm 2 lần.

- Lần 1: từ tháng 3 - 4. - Lần 2: từ tháng 9 - 10.

- Tiêm phòng bổ sung vào các tháng còn lại đối với heo mới sinh, heo chưa được tiêm trong thời gian tiêm phòng định kỳ và tiêm nhắc lại đối với heo đã hết thời gian miễn dịch.

5. Tiêm phòng bệnh dịch tả heo như thế nào
- Đối với heo con sinh ra từ heo mẹ đã được tiêm phòng: tiêm cho heo con từ 35 - 45 ngày tuổi.

- Đối với heo con sinh ra từ heo mẹ chưa được tiêm phòng: Có thể tiêm cho heo con 7 ngày tuổi, sau 3 tuần tiêm nhắc lại hoặc tiêm cho heo con 14 ngày tuổi, sau 2 tuần tiêm nhắc lại.

- Đối với heo nái mang thai: tiêm phòng trong thời gian mang thai từ 30 - 85 ngày của thai kỳ.

6. Thế nào là chăn nuôi an toàn sinh học
- Thường xuyên vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi hàng ngày, cọ rửa máng ăn, máng uống.

- Sau khi xuất bán heo, phải quét dọn chuồng trại sạch sẽ, phun thuốc tiêu độc khử trùng chuồng trại và khu vực xung quanh nên để trống chuồng từ 5 - 7 ngày.

- Heo mới mua về phải cách ly ít nhất 7 ngày để theo dõi lâm sàng cho đến khi heo không có biểu hiện bệnh mới được nhập nnuôi chung với đàn heo cũ.

- Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, hạn chế khách tham quan vào chuồng trại.

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Cách phòng ngừa dịch heo tai xanh

Cách phòng ngừa dịch heo tai xanh

Bệnh heo tai xanh và các biện pháp phòng chống



Thực ra bệnh heo tai xanh không phải là bệnh mới lạ đối với phần lớn người nuôi heo tại Bến Tre. Các năm trước đây, bệnh đã từng xảy ra tại một số nơi trong tỉnh, tuy nhiên ở mức độ nhỏ, phạm vi hẹp và thiệt hại không lớn. Thế nhưng hiện nay (đến cuối tháng 9 này), bệnh đã và đang xảy ra trên diện rộng ở khu vực Nam Bộ hơn hai tháng nay và còn diễn biến phức tạp. Bệnh cũng đã xuất hiện rải rác ở nhiều nơi trong tỉnh Bến Tre, làm cho người chăn nuôi hết sức e ngại. Một số thông tin sau đây nhằm giúp người chăn nuôi hiểu rõ hơn về căn bệnh hiện tại, có cách phòng trị, xử lý thích hợp để giảm thiểu thiệt hại một cách thấp nhất.

1. Về tác nhân gây bệnh


Vi rút gây bệnh có cấu trúc ARN thuộc giống
Arterivi rút, họ Arteriviridae, bộ Nidovirales

Bệnh tai xanh còn gọi là hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp (PRRS), là một bệnh truyền nhiễm, lây lan nhanh ở heo. Bệnh do một loại vi rút gây ra. Đặc trưng của bệnh là hiện tượng sẩy thai ở heo nái chửa hoặc triệu chứng bệnh đường hô hấp, đặc biệt là ở heo con cai sữa.

2. Cách sinh bệnh

Vi rút rất thích hợp với đại thực bào, nhất là đại thực bào hoạt động ở vùng phổi. Bình thường, đại thực bào sẽ tiêu diệt tất cả vi khuẩn, vi rút xâm nhập vào cơ thể; nhưng đối với bệnh PRRS, vi rút có thể nhân lên trong đại thực bào, sau đó phá hủy và giết chết đại thực bào. Số lượng đại thực bào tại phổi bị vi rút phá huỷ có thể lên đến 40%, sẽ làm giảm chức năng miễn dịch không đặc hiệu, tạo điều kiện cho các loại mầm bệnh khác xâm nhập gây bệnh kế phát ở hệ hô hấp. Heo chết thường là do nhiễm trùng kế phát các tác nhân bệnh khác như Dịch tả heo, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, E. coli, Streptococcus suis, Mycoplasma spp., Salmonella, v.v…



Đại thực bào bình thường




Đại thực bào bị phá hủy

3. Cách lây lan

Bệnh có tốc độ lây lan nhanh, trong vòng 3-5 ngày cả đàn có thể bị nhiễm bệnh. Thời gian có thể kéo dài khoảng 5-15 ngày tùy theo sức khỏe của heo. Vi rút có thể phát tán thông qua các hình thức: vận chuyển heo mang trùng, theo gió (có thể đi xa tới 3km), bụi, bọt nước, dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm trùng, thụ tinh nhân tạo và có thể do một số loài chim hoang...

Đặc điểm của các ổ dịch đang hoành hành tại khu vực

Nam Bộ và Bến Tre

Đặc điểm của các ổ dịch năm nay là vi rút gây bệnh có độc lực cao hơn rất nhiều, tốc độ lây lan nhanh hơn. Mầm bệnh qua xét nghiệm là vi rút PRRS type II, qua giải mã gen của Cục Thú y cho biết, chủng gây bệnh tương đồng với chủng gây bệnh tại Trung Quốc, một chủng mới đột biến gần đây. Đây là cơ sở giải thích cho việc vì sao các trại có chích ngừa vắc xin tai xanh mà bệnh vẫn xảy ra: vì các vắc xin đều được chế từ chủng châu Âu hoặc chủng Bắc Mỹ nên không bảo hộ được trong đợt dịch này.

Về nguyên nhân phát sinh, theo nhận định của Cục Thú y do vi rút đã lưu hành rộng rãi trong đàn heo. Theo một khảo sát của Cơ quan Thú y vùng VI, tỉ lệ lưu hành vi rút trong đàn heo tại các tỉnh phía Nam chiếm tỉ lệ trên 40%. Khi gặp điều kiện thời tiết như mưa dầm liên tục kéo dài, lạnh, ẩm, sức chống chịu của đàn heo giảm sút, thì các vi rút này phát triển và phát sinh thành ổ dịch. Sau đó bệnh lan rộng ra mà yếu tố lây lan chính là do thương lái đi thu mua heo từ chuồng nuôi này sang chuồng nuôi khác hoặc do thú y cơ sở đi điều trị nhưng không đảm bảo biện pháp ngăn ngừa an toàn sinh học.

Vi rút đợt dịch này có độc lực rất cao: các mẫu lấy được tại Bến Tre đều dương tính ngay cả khi chưa thấy biểu hiện lâm sàng và bệnh tích điển hình như các ổ dịch trước đây. Điều này gây khó khăn cho việc xác định bệnh trong giai đoạn đầu để có biện pháp phòng trị thích hợp.

4. Biểu hiện bệnh

Vi rút gây ra biểu hiện lâm sàng ở hai trạng thái sinh sản và hô hấp.

- Ở heo nái có biểu hiện: biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú, đẻ sớm, da biến màu (màu hồng), lờ đờ hoặc hôn mê, thai khô hoặc heo con chết ngay sau khi sinh.

Heo nái sốt cao, đờ đẫn, hôn mê

- Ở heo con theo mẹ: thể trạng gầy yếu, mắt có ghèn màu nâu, da có vết phồng rộp, tiêu chảy nhiều, ủ rũ, run rẩy. Heo con yếu, tai chuyển màu tím xanh. Tỉ lệ chết ở đàn con có thể tới 100%.


Heo có biểu hiện tai màu tím xanh

- Ở heo cai sữa và heo vỗ béo: những biểu hiện ban đầu thường là da đỏ ửng hoặc mắt sưng đỏ. Khi bệnh tiến triển, có thêm những bệnh tích đặc biệt trên da hoặc trên tai (tỉ lệ chết từ 20-70%).

Heo bệnh ban đầu sốt đỏ ửng toàn thân

5. Cách phát hiện bệnh

Các biểu hiện của bệnh thường không đặc trưng và dễ nhầm lẫn khi kế phát với các bệnh khác. Để phát hiện heo bệnh tai xanh, thường xuyên kiểm tra sức khỏe đàn heo nuôi và sử dụng định nghĩa ca bệnh lâm sàng theo Cục Thú y như sau:

1. Heo sốt cao trên 40oC.

2. Khó thở.

3. Có những vết bầm, thâm tím trên da, tai tím xanh.

4. Heo ở các lứa tuổi khác nhau đều có thể mắc bệnh.

Trong thực tế chăn nuôi, khi người nuôi thấy các dấu hiệu sau đây:

- Heo chích kháng sinh nhiều ngày không giảm

- Có nhiều heo nái sẩy thai, hoặc sốt nằm đờ đẫn, hôn mê

- Heo con, heo cai sữa cả đàn có biểu hiện ửng đỏ toàn thân hoặc tai tím bầm

à Phải nghi ngờ heo bị tai xanh !

6. Biện pháp xử lý

Trước tiên là không nên quá hoang mang lo lắng khi thấy heo bị bệnh. Vì không phải tất cả heo bệnh đều mắc bệnh tai xanh. Thống kê gần đây (30/8/2010) của Cơ quan Thú y vùng VII tại 12 tỉnh đang có bệnh heo tai xanh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long thì tỉ lệ bệnh là 3,25%. Trong đó, ngay cả tỉnh đang có dịch trầm trọng như tỉnh Tiền Giang thì tỉ lệ bệnh này chỉ xấp xỉ 10%. Do vậy, khi thấy có hiện tượng heo sốt, bỏ ăn thì trước tiên người nuôi nên tích cực chăm sóc, điều trị. Trường hợp điều trị nhiều ngày không khỏi hoặc có heo chết thì nên báo cho nhân viên thú y xã để có được hướng dẫn hoặc xử lý, hỗ trợ thích hợp.

Có thể điều trị được bệnh heo tai xanh hay không?

Bệnh do vi rút gây ra nên chưa có thuốc điều trị đặc hiệu để trị tiệt căn bệnh. Việc sử dụng thuốc điều trị có tác dụng làm giảm triệu chứng hoặc chống bội nhiễm các bệnh khác mà không diệt ngay được vi rút bệnh. Nếu không bị bội nhiễm bệnh khác gây chết, cơ thể heo sẽ tự tạo được kháng thể tự nhiên chống lại vi rút PRRS và heo dần hồi phục. Thực tế cho thấy, các trại nuôi có qui trình vệ sinh phòng bệnh chặt chẽ, qui trình tiêm phòng các bệnh nguy hiểm như Dịch tả, Tụ huyết trùng, Thương hàn, Suyễn heo đầy đủ thì kể cả khi có bệnh phát sinh cũng chỉ xảy ra ở mức độ nhẹ và khả năng khỏi đạt đến 90% nếu được chăm sóc điều trị hợp lý.

Qua thực tế theo dõi việc chăm sóc, điều trị heo bệnh tại một số trang trại thời gian gần đây, chúng tôi giới thiệu đến người chăn nuôi một phác đồ điều trị gợi ý như sau:

- Trước tiên phải cách ly số heo bệnh, chăm sóc tốt, giữ chuồng trại sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát.

- Nếu heo có biểu hiện sốt: tiêm kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng, (tức các loại kháng sinh có tác dụng chống nhiễm khuẩn trên đường hô hấp, tiêu hóa, sinh dục…) và là loại kháng sinh có tác dụng kéo dài (tức các kháng sinh có thời gian lưu trữ lâu trong cơ thể từ 48 giờ trở lên, các kháng sinh này thường được ghi ký hiệu trên nhãn với chữ L.A. in hoa). Việc tiêm các kháng sinh L.A. này sẽ giảm thiểu số lần tiêm giúp cho heo ít bị áp xe hơn, dễ hấp thu thuốc hơn. Không nhất thiết phải mua các kháng sinh nhập đắt tiền vì đối với bệnh này, kháng sinh chỉ có tác dụng ngăn bội nhiễm chứ không phải là thuốc điều trị chủ lực.

- Pha Vitamin C + Glucose hoặc Eletrolytes hoà nước cho uống hàng ngày để nâng cao sức đề kháng cho heo.

- Nếu heo sốt cao: sử dụng thuốc hạ sốt (như Paracetamol, AnaginC...), còn trường hợp thở khó thì dùng thuốc long đờm, trợ hô hấp (như Bromhexin).

Bệnh có thể khỏi từ 5-15 ngày tùy thuộc vào sức khỏe đàn heo, qui trình tiêm phòng đầy đủ các bệnh trước đó.

7. Về phòng bệnh

- Chủ động phòng bệnh bằng cách áp dụng các biện pháp an toàn sinh học như:

+ chuồng trại phải sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát;

+ tăng cường chế độ dinh dưỡng cho heo;

+ mua heo giống từ những cơ sở đảm bảo;

+ hạn chế người tham quan; không mượn dụng cụ chăn nuôi của các trại khác;

+ Thường xuyên vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng nuôi: có thể định kỳ sát trùng chuồng 1 tuần 2 lần bằng các loại thuốc sát trùng thích hợp, không ảnh hưởng đến hô hấp khi heo hít phải.

- Chú ý tiêm phòng vắc xin đầy đủ các bệnh nguy hiểm thường kế phát bệnh tai xanh như: Dịch tả, Tụ huyết trùng, Thương hàn, Suyễn heo.

Có nên sử dụng vắc xin tai xanh để phòng bệnh hay không ?

Hiện nay có 4 loại vắc xin đang lưu hành tại VN:

- Hai loại đầu là vắc xin nhược độc BSL-PS100 (Bestar – Singapore) và Amervac PRRS (HIPRA - Tây Ban Nha) được đăng ký vào những năm 2000 sau khi đàn heo trong nước phát hiện dương tính với vi rút gây tai xanh vào cuối năm 1996.

- Đến năm 2007 và 2008, khi dịch tai xanh bùng lên dữ dội thì có thêm hai loại vắc xin khác được khảo nghiệm là vắc xin tai xanh vô hoạt chủng NVDC-JXA1 của Trung Quốc và vắc xin tai xanh nhược độc Ingelvac PRRS MLV của hãng Boehringer Ingelheim VET của Đức sản xuất.

- Mặc dù các loại vắc xin trên đều đang được phép sử dụng trong nước, nhưng do chưa có hiệu nghiệm thực sự, sau khi tiêm heo vẫn có thể mắc tai xanh, nên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không chính thức khuyến cáo nông dân sử dụng.

- Việc sử dụng chủ yếu là do nhu cầu của các chủ trại, ai thích dùng thì dùng (không như vắc xin phòng chống cúm gia cầm là do nhà nước bỏ tiền mua và bắt buộc các địa phương phải tiêm phòng).

Hiện Cục Thú y vừa mới nhập về hơn 200.000 liều vắc xin tai xanh nhược độc (vắc xin sống chủng NVDC-JXA1) của Trung Quốc để tiêm khảo nghiệm tại các tỉnh đang xảy ra dịch. Bến Tre mới đây đã được phân bổ 10.000 liều dự kiến sẽ tổ chức tiêm khảo nghiệm tại một số trang trại ở các xã, huyện chưa xảy ra dịch, hy vọng sớm có vắc xin giúp người chăn nuôi ứng phó với dịch tai xanh.

Hiện nay ăn sản phẩm, thịt heo có an toàn hay không?

Hiện nay, dịch tai xanh xảy ra trên đàn heo làm cho người tiêu dùng có tâm lý lo ngại và không dám sử dụng các sản phẩm từ heo. Thật ra không nên quá lo lắng như vậy vì lý do như sau:

1) Gây bệnh tai xanh trên heo là một loại vi rút thường được gọi là vi rút PRRS và thực tế vi rút này chỉ gây bệnh cho heo mà không gây bệnh cho con người.

2) Kể cả những nơi đang có dịch trầm trọng (như tỉnh Tiền Giang hiện nay chẳng hạn) thì không phải tất cả các con heo đều bị nhiễm bệnh tai xanh. Trong đó có nhiều con heo khỏe mạnh thì đến lúc này người ta vẫn sử dụng giết mổ bình thường.

3) Vi rút rất dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao trên 70 độ C, do đó vẫn không có gì phải ngán ngại nếu thịt hoặc sản phẩm heo đã qua chế biến và nấu chín kỹ.

Như vậy, làm thế nào để người tiêu dùng nhận biết thịt heo có bệnh tai xanh hay không?

Cách tốt nhất là người tiêu dùng nên tìm mua thịt heo đã được qua kiểm soát của cơ quan thú y và đã được lăn dấu lên trên thân thịt, tại những quày sạp mua bán quen thuộc. Không nên ham rẻ, mua tại lề đường, ngõ xóm rất dễ gặp phải heo bệnh.

Ngoài ra, người tiêu dùng cũng có thể phân biệt được thịt heo tốt, khỏe và thịt heo bệnh, chết nếu khi mua quan sát và lựa chọn kỹ .

Trên da của miếng thịt heo tốt khỏe phải trắng đều, không có điểm tụ máu, hoặc màu sắc khác. Thịt khi cắt ra thì mặt cắt phải khô và đồng nhất, không có những màu sắc khác, ví dụ như những điểm tụ máu, tím bầm là không tốt. Khi ấn tay vào, thịt phải có sự đàn hồi, bề mặt hơi dính; nếu ấn tay vào lõm, không nhả ra được hoặc có nước chảy ra thì đấy là thịt heo bệnh. Thịt heo bệnh thường không để được lâu, nếu trong thời tiết nóng nực dễ bị ôi thối.


Thịt heo tốt có màu hồng tươi, mặt cắt khô ráo,
không có điểm tụ máu

Ngoài ra, trong thời gian này, người dân tuyệt đối không nên ăn các loại thực phẩm chưa qua chế biến chín như: tiết canh, các món gỏi, tái, nem chua… Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, thịt cũng như phủ tạng của heo đều phải được chế biến chín.

Heo được kiểm soát tại các lò mổ như thế nào ?

Heo đưa đến lò mổ được nhân viên thú y tại lò mổ thực hiện kiểm tra tiêu chuẩn vệ sinh theo Quy trình kiểm soát giết mổ động vật do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn qui định.

Trước khi đưa vào giết mổ,

- Nhân viên thú y kiểm tra lâm sàng tình trạng sức khoẻ và vệ sinh đối với heo đưa vào giết mổ.

- Đối với heo được vận chuyển từ các huyện hoặc tỉnh khác đến còn phải được kiểm tra có giấy chứng nhận kiểm dịch hợp lệ.

Trong khi giết mổ

Heo được kiểm soát chặt chẽ theo nguyên tắc sau:

1. Kiểm tra vệ sinh: thân thịt phải được vệ sinh sạch sẽ, không dính lông, phân và các chất bẩn khác, chọc tiết phải đảm bảo ra hết máu;

2. Kiểm tra phẩm chất thịt: thân thịt phải có phẩm chất tốt, màu sắc, mùi đặc trưng; khám và phát hiện những biểu hiện khác thường và những triệu chứng bệnh lý;

3. Phủ tạng phải được vệ sinh sạch sẽ, thân thịt con nào phải để liền phủ tạng con đó hoặc đánh số để việc kiểm tra được thuận tiện, tránh nhầm lẫn;

4. Phủ tạng phải được khám tuần tự từng bộ phận, tránh thiếu sót; khám và phát hiện những biểu hiện khác thường, những triệu chứng bệnh lý;

5. Các yêu cầu trong công tác kiểm tra: kiểm tra thân thịt sau khi giết mổ phải được tiến hành ngay sau khi hoàn thành việc giết mổ nhằm phát hiện ngay bất kỳ sự bất bình thường nào của thân thịt; khi kiểm tra nếu phát hiện thấy có bệnh tích nghi ngờ thì phải đưa tới khu vực riêng (khu xử lý) để kiểm tra lại lần cuối, sau đó mới đưa ra quyết định xử lý.

6. Kết quả kiểm tra sau khi giết mổ phải cung cấp được các thông tin cần thiết để đánh giá một cách khoa học các tổn thương bệnh lý có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng của thịt.

Sau khi giết mổ

- Heo đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y được đóng dấu hoặc lăn dấu kiểm soát giết mổ trên thân thịt, được phép cấp giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển sản phẩm động vật

- Heo không đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y sẽ bị đóng dấu xử lý hoặc dấu hủy và được nhân viên thú y giám sát xử lý, tiêu hủy.

Tóm lại

Theo qui luật dịch bệnh thì dù sớm hay muộn thì dịch tai xanh cũng sẽ chấm dứt.

Còn theo qui luật cung cầu của thị trường thì nhu cầu thịt heo cũng sẽ tăng trở lại và kéo theo nhu cầu chăn nuôi tăng, nhu cầu con giống tăng theo. Dự báo con giống heo trong thời gian tới có thể trở nên khan hiếm nếu trong thời gian này đàn giống không được gìn giữ hoặc bán, hủy hết.

Thời điểm này là lúc người chăn nuôi cần hết sức bình tĩnh, tránh hoang mang lo lắng, nên tích cực chăm sóc điều trị khi đàn heo có bệnh và nhất là cố gắng duy trì đàn giống tốt./.

Ths.Phan Trung Nghĩa-Chi cục Thú y Bến Tre
Cách phòng ngừa dich heo tai xanh

Heo bị tiêu chảy và cách trị

Heo bị tiêu chảy và cách trị

- Do vi khuẩn: Vi khuẩn Clostridium, Salmonella, E.coli, Erysipelothrix gây bệnh tiêu chảy xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc mũi, miệng, đường tiêu hoá gây bệnh thối ruột hoại thư, tiêu chảy, phó thương hàn, đóng dấu, tụ huyết trùng... Ngoài ra còn có cầu khuẩn, trực khuẩn amíp gây tiêu chảy kiết lị.
- Do ký sinh trùng: Các loại ký sinh trùng như giun đũa, giun lươn, giun tóc, sán... lây nhiễm qua phân, nước tiểu, nước uống, rau sống... gây bệnh tiêu chảy.
- Do thức ăn: Các loại thức ăn kém chất lượng, thiếu chất, nấm mốc, ôi thiu, nhiễm hoá chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng hay thức ăn quá nhiều đạm cũng gây nên tiêu chảy.
- Các nguyên nhân khác: Lợn con mới đẻ thiếu sắt, vitamin nhóm B, A, nguyên tố đồng... dẫn đến rối loạn tiêu hoá dẫn tới tiêu chảy. Những yếu tố thời tiết, stress, ẩm độ cao... khiến lợn con hay bị tiêu chảy.



Biểu hiện bệnh tiêu chảy
Lợn sốt nhẹ, biếng ăn, bỏ ăn, suy nhược do mất nước nhiều, phân lúc đầu có thể táo, sau tiêu chảy. Nếu thấy phân loãng, thối khẳm do bệnh phó thương hàn, phân sền sệt do vi khuẩn, phân loãng màu trắng bệnh ỉa phân trắng, phân lỏng toàn nước là dịch tả... Lợn đi lại xiêu vẹo, xù lông... dẫn đến tử vong.


Phòng bệnh
Tuân thủ quy trình nuôi, tiêm phòng thuốc thú y, vaccin dịch tả, thương hàn, đóng dấu cho lợn từ 21-40 ngày sau đẻ. Tiêm cho lợn mẹ trước khi phối giống 10-15 ngày; tiêm sắt, B12 cho heo từ 3-5 ngày tuổi 1ml/con, cho heo mẹ từ 3-5ml trước khi đẻ 2-3 tuần; dùng Levamisol tiêm 1ml cho 10kg trọng lượng để tẩy nội ký sinh trùng cho lợn. Tăng cường kiểm tra thức ăn, nước uống, vệ sinh chuồng trại...

Điều trị
Tìm rõ nguyên nhân, loại bỏ ngay những tác nhân gây bệnh, như nếu do thức ăn phải dừng ngay không cho ăn loại thức ăn đó, do ký sinh trùng phải dùng thuốc diệt ngay, do vi khuẩn dùng kháng sinh Tetra Fura 1g/5kg trọng lượng, Ampi Septol 1ml/8kg trọng lượng, Chlortetradexa dùng cho lợn con 1-3ml/con, lợn từ 25-50kg dùng 5-10ml/con, lợn 50-100kg/con dùng 10-20ml/con. Chú ý, nên mời cán bộ thú y đến theo dõi, chăm sóc...

Heo bị tiêu chảy và cách trị by st

Heo bị sốt thương hàn xuât huyết trên da

Heo bị sốt thương hàn xuât huyết trên da

NGUYÊN NHÂN: Bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra với đặc điểm nhiễm trùng máu, viêm dạ dày ruột, viêm phổi trên heo sau cai sữa, heo thịt. Gây xáo trộn sinh sản trên heo nái.
TRIỆU CHỨNG VÀ BỆNH TÍCH:
* Thể nhiễm trùng máu: thường gặp trên heo con khoảng 2 tháng tuổi, với biểu hiện:
- Sốt cao 40,5-41,50C
- Nằm yên một chỗ, yếu ớt. Có thể có biểu hiện thần kinh.
- Xuất huyết ở 2 tai, chân, lưng.
- Chết trong vòng 24-48 giờ sau khi phát bệnh (tỉ lệ chết có thể 100%).
* Thể tiêu hoá:
Dạng cấp tính: thường gặp trên heo con. - Heo sốt 40-41,50C, bỏ ăn, nằm tụm lại một chỗ, chết sau 2-4 ngày.
- Triệu chứng thường thấy là xáo trộn về tiêu hoá: viêm dạ dày ruột dẫn đến ói mửa, tiêu chảy phân vàng hôi thối. Mổ khám thấy ruột xuất huyết.
- Có thể xuất hiện thêm những dấu hiệu sau:
+ Da: xuất huyết phần da mỏng ở tai, họng, mặt trong mũi.(Hình 3)
+ Viêm dạ dày-ruột có thể đi cùng với viêm phổi, viêm phế quản với biểu hiện ho và khó thở.
+ Viêm khớp.
+ Thần kinh: đi đứng không vững, run rẩy, liệt nhẹ chân sau.
Dạng mãn tính: từ cấp tính chuyển sang, thường gặp trên heo nuôi vỗ.
- Heo rất gầy yếu, da xanh xao
- Sốt nhẹ, cách khoảng. Heo bị bón trong 5-7 ngày, sau đó tiêu chảy lỏng với những mảnh xám của tế bào thượng bì ruột bị hoại tử , rất hiếm khi có máu.
- Một số heo bị viêm phổi, ho, khó thở, viêm khớp. Bệnh kéo dài nhiều tuần làm heo còi cọc suy nhược thường chết sau 2-4 tuần. Mổ khám thấy ruột già bị loét
* Thể sinh dục
- Sẩy thai khoảng một tháng trước khi đẻ hoặc sinh ra heo con chết.
- Heo nái sau khi sinh thường bị sót nhau, viêm tử cung.
Hình: ruột xuất huyết
Hình: heo tiêu chảy phân vàng

Hình: xuất huyết phần da mỏng

Heo>>Bệnh phó thương hàn trên heo
NGUYÊN NHÂN:
Bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra với đặc điểm nhiễm trùng máu, viêm dạ dày ruột, viêm phổi trên heo sau cai sữa, heo thịt. Gây xáo trộn sinh sản trên heo nái.

TRIỆU CHỨNG VÀ BỆNH TÍCH:
* Thể nhiễm trùng máu: thường gặp trên heo con khoảng 2 tháng tuổi, với biểu hiện:
- Sốt cao 40,5-41,50C
- Nằm yên một chỗ, yếu ớt. Có thể có biểu hiện thần kinh.
- Xuất huyết ở 2 tai, chân, lưng.
- Chết trong vòng 24-48 giờ sau khi phát bệnh (tỉ lệ chết có thể 100%).
* Thể tiêu hoá:
Dạng cấp tính: thường gặp trên heo con. - Heo sốt 40-41,50C, bỏ ăn, nằm tụm lại một chỗ, chết sau 2-4 ngày.
- Triệu chứng thường thấy là xáo trộn về tiêu hoá: viêm dạ dày ruột dẫn đến ói mửa, tiêu chảy phân vàng hôi thối. Mổ khám thấy ruột xuất huyết.
- Có thể xuất hiện thêm những dấu hiệu sau:
+ Da: xuất huyết phần da mỏng ở tai, họng, mặt trong mũi.(Hình 3)
+ Viêm dạ dày-ruột có thể đi cùng với viêm phổi, viêm phế quản với biểu hiện ho và khó thở.
+ Viêm khớp.
+ Thần kinh: đi đứng không vững, run rẩy, liệt nhẹ chân sau.
Dạng mãn tính: từ cấp tính chuyển sang, thường gặp trên heo nuôi vỗ.
- Heo rất gầy yếu, da xanh xao
- Sốt nhẹ, cách khoảng. Heo bị bón trong 5-7 ngày, sau đó tiêu chảy lỏng với những mảnh xám của tế bào thượng bì ruột bị hoại tử , rất hiếm khi có máu.
- Một số heo bị viêm phổi, ho, khó thở, viêm khớp. Bệnh kéo dài nhiều tuần làm heo còi cọc suy nhược thường chết sau 2-4 tuần. Mổ khám thấy ruột già bị loét
* Thể sinh dục
- Sẩy thai khoảng một tháng trước khi đẻ hoặc sinh ra heo con chết.
- Heo nái sau khi sinh thường bị sót nhau, viêm tử cung.

Hình: ruột xuất huyết

Hình: heo tiêu chảy phân vàng

Hình: xuất huyết phần da mỏng


BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH:
* Phòng bệnh: ngoài biện pháp sử dụng vaccin, nên sử dụng thuốc trộn thức ăn: FLORFEN-B liều 4g hoà vào 1 lít nước hoặc 8 g trộn 1 kg thức ăn, dùng trong 2-3 ngày liên tục kết hợp với việc vệ sinh chuồng trại, phun thuốc sát trùng PIVIDINE hoặc ANTIVIRUS-FMB (dùng 2-3 ml thuốc hoà trong 1 lít nước, phun thuốc mỗi tuần 1-2 lần), chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ hạn chế xảy ra dịch bệnh.
* Trị bệnh: Tiến hành ngay
- Dùng kháng sinh kết hợp với thuốc giảm đau, hạ sốt đồng thời trợ sức cho heo:
+ Kháng sinh: chọn 1 trong các loại kháng sinh sau:
. FLORFENICOL LA: 1ml/20 kg thể trọng, sử dụng 1 liều duy nhất, trường hợp bệnh nặng nên dùng liều thứ 2, cách liều thứ nhất là 2 ngày.
. FLOXY, BESTSONE, D.O.C MAX: 1 ml/ 8-15 kg thể trọng, tiêm ngày 1 lần trong 4-5 ngày liên tục.
. FLORTYL F.T.P, TYLO-D.C: 1 ml/ 7-12 kg thể trọng, tiêm ngày 1 lần trong 3-5 ngày liên tục.
+ Hạ sốt: ANALGINE + C: 1 ml/ 10-15 kg thể trọng, ngày 2 lần cho đến khi hết triệu chứng sốt.
+ Trợ sức: B.COMPLEX-C: 1 ml/ 10 kg thể trọng, ngày 1 lần cho đến khi hồi phục.
+ Bù nước và cung cấp chất điện giải: ELECTROLYTE - C: hoà tan 1 g / 2 lít nước, cho uống tự do cho đến khi hết bệnh.
Heo bị sốt thương hàn xuât huyết trên da

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng nái đẻ và heo sơ sinh

Kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng nái đẻ và heo sơ sinh


Kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng nái đẻ và heo sơ sinh by C.ty UVVN | Ky thuat cham soc va nuoi duong nai de va heo so sinh

1. Dấu hiệu nái sắp sinh
- Nái sắp sanh thường biểu hiện ăn ít hay không ăn, có tiếng kêu rền của nái sắp đẻ. Nái thường ủi phá nền chuồng (hiện tượng quầng ổ). Để nái ít hao tốn năng lượng do việc quầng ổ, ta nên rải rơm, cỏ khô hoặc bao bố sạch vào chuồng cho nái nằm.

- Nái sắp sinh có thể tăng thân nhiệt, tăng nhịp thở, đi lại không yên trong chuồng, đi phân, đi tiểu nhiều lần (gọi là đi mót) làm cho ô chuồng dơ bẩn. Do đó cần vệ sinh và giữ chuồng luôn khô ráo để tránh nhiễm trùng cho heo con và bộ phận sinh dục heo nái sau khi đẻ.

- Nái sắp đẻ có bộ vú phát triển rõ rệt,các núm vú dài ra, quầng núm rộng. Heo sắc lông trắng thường có quầng núm vú và núm vú màu đỏ hồng, hai hàng vú tạo thành hai bệ sữa chạy dọc đường giữa bụng, có rãnh phân chia rõ rệt giữa hai hàng vú và các vú.

- Khi nặn đầu vú chưa thấy sữa non, chắc chắn nái chưa đẻ trong 4 - 6 giờ sắp tới; nếu sữa non rịn ra đầu vú qua hai lỗ tia sữa, nái sẽ đẻ trong vòng 6 giờ. Khi nặn các đầu vú đều có sữa non vọt thành tia dài, nái sẽ sinh trong vòng 2 giờ sau. Nếu bộ phận sinh dục có nước nhờn màu hồng và những hạt lợn cợn như hạt đu đủ (cứt su do heo con thải ra), nửa giờ sau nái sẽ đẻ. Nếu nái nằm nghiêng một bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng, ép đùi, quẩy đuôi rặn đẻ thì chỉ vài mươi giây sau nái sẽ đẻ.

2. Chăm sóc nái đẻ và heo con sơ sinh
- Nơi nái đẻ phải thoáng mát, yên tĩnh. Nhiệt độ cao, hầm nóng, không thông thoáng làm cho nái thở mệt, lười rặn, đẻ chậm gây ngộp thai. Sự ồn ào, lạ người chăm sóc, sự hiện diện của thú lạ như chó mèo có thể làm nái hoảng sợ hoặc hung dữ, ngưng đẻ hoặc đẻ chậm, số heo con chết lúc đẻ tăng.

- Thông thường mỗi 15 - 20 phút nái đẻ 1 con, có khi nái đẻ liên tiếp nhiều con rồi ngưng nghỉ một thời gian. Bình thường, khoảng 3 - 4 giờ nái đẻ hết số con, nhau được tống ra sau cùng. Những nái tống nhau ra hàng loạt sau chót thường ít bị viêm nhiễm đường sinh dục vì lá nhau như là chất “lau rửa” tống khứ chất dịch hậu sản ra khỏi đường sinh dục. Trái lại nái có thai chết trước khi sinh hoặc thai lớn còn nằm trong bọc nhau, thì nái ít rặn, chậm đẻ; những thai này ảnh hưởng xấu đến những thai còn sống bên trong (tăng số heo con ngộp, chết trong lúc sanh: chết tươi).

- Cần cảnh giác các trường hợp nái sinh con nhanh bỗng nhiên ngưng đẻ, cường độ rặn yếu để có biện pháp can thiệp kịp thời tống những thai chết trước khi sinh, cứu sống những thai sống trong bụng nái. Cũng có trường hợp sau khi tống hết số nhau (bằng số con đẻ ra), vẫn còn sót thai. Nguyên nhân do thai này to và cũng do nái mệt, ngủ nên không đẻ ra kịp. Hậu quả là thai chết, thai bị sình thối gây viêm nhiễm trùng nặng cho nái; nái sốt cao, bỏ ăn, mất sữa…; heo con chết vì đói.

- Không nên can thiệp bằng oxytocin khi chưa đẻ con đầu tiên. Nếu cần thiết, nên thăm khám vùng chậu, không nên thọc tay sâu vào bên trong tử cung vì dễ gây nhiễm trùng tử cung. Nếu thọc tay sâu vào tử cung nhiều lần gây rối loạn nhu động, làm đau nái, nái tạm ngưng đẻ một thời gian.

- Nhiều trường hợp nái đẻ mà heo con vẫn còn nằm trong bọc nhau, cần nhanh chóng xé bọc để heo thở, không bị chết ngộp. Sau khi nái đẻ hết con, nhau sẽ tống ra (số lá nhau bằng số con). Nái cho con bú mà đuôi buông thỏng thì xem như không còn sót con, sót nhau. Trái lại, khi cho con bú, nái vẫn còn cong đuôi (đuôi quấn một vòng cong) và quan sát kỹ có thể thấy thỉnh thoảng nái nín thở, ép bụng thì xem như vẫn còn sót con hay sót nhau. Dấu hiệu cong đuôi thường báo hiệu rất chính xác tình trạng sót con, sót nhau. Heo nái đẻ sót con xảy ra nhiều hơn sót nhau so với những thú khác.

- Trong khi đẻ, nhiều nái thường đứng dậy, đi uống nước, hoặc đi phân, đi tiểu, trở thế nằm để tiếp tục đẻ. Nguyên nhân có thể do thai phân bố hai bên sừng tử cung. Do vậy khi thấy nái đẻ một số con rồi ngưng nghỉ, ta nên nhẹ nhàng đỡ nái đứng dậy đi một vòng và tác động các vú đối diện để cho nái trở bề nằm (nếu muốn nái nằm bên phải thì xoa nắn bệ vú, hàng vú bên trái và ngược lại).

- Trước khi nái đẻ cần vệ sinh sạch sẽ vùng hội âm (quãng giữa âm hộ với hậu môn). Vùng này thường có nhiều nếp gấp, da chết, tích tụ chất bẩn hoặc phân dính, chúng dễ vấy nhiễm vào âm đạo khi can thiệp móc thai. Nên cắt sạch lông đuôi để tránh tình trạng nái quẩy đuôi khi rặn đẻ làm văng và phát tán dịch nhày (sản dịch), hoặc dịch hậu sản, hoặc mủ (khi bị viêm đường sinh dục). Việc cắt lông đuôi cũng có lợi cho chủ nuôi đoán biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ của nái (lông đuôi dài ra thì khoảng cách giữa hai lứa đẻ dài và ngược lại). Một số trại, chủ trương cắt đuôi heo nái; như vậy khó phát hiện tình trạng sót con, sót nhau sau khi đẻ.

- Chuồng trại hầm nóng, heo nái thở mệt, ít rặn đẻ. Chống nóng cho nái bằng cách lau khăn mát nhiều lần, chườm lạnh vùng đầu, hoặc điều chỉnh bầu tiểu khí hậu nếu có điều kiện, nhờ đó có thể giúp nái đẻ nhanh, ít gây chết thai. Một số nái sắp đẻ thường bị sưng phù âm môn rất nặng và nếu nái rặn đẻ quá mạnh hoặc dùng thuốc kích thích rặn đẻ, có thể gây vỡ âm môn, chảy máu; cần có biện pháp cầm máu kịp thời (dùng kẹp kẹp mạch máu và chỉ cột mạch máu), tránh tử vong cho nái.

- Sau khi đẻ, heo sơ sinh được xách dốc ngược đầu cho nước nhờn trong xoang miệng và mũi chảy ra ngoài, không chảy ngược vào khí quản gây nghẽn đường thở. Việc xách dốc ngược cũng giúp máu dồn về não ở những con bị ngộp nhờ đó não không bị liệt. Nên nắm chặt cuống rốn, tránh chảy máu sau khi cuống rốn đứt rời cuống nhau (lá nhau còn nằm trong bộ phận sinh dục nái). Nên quan sát kỹ để phát hiện tình trạng heo con bị ngộp như da tím tái, giãn cơ, heo mềm nhũn không cử động. Gặp trường hợp này phải nhanh chóng dùng khăn sạch lau móc nhớt trong xoang miệng, mở rộng miệng và dùng tay bóp lồng ngực 60 lần/phút để tạo sự thông khí phổi. Có thể tác động như thế trong vòng 15 - 20 phút kết hợp với việc lau, mở rộng miệng mỗi 2 - 3 phút/ lần, heo con có thể hồi phục; nên dành thời gian chăm sóc những con kế tiếp.

- Khi thấy heo con bắt đầu loi nhoi cử động, ta tiến hành lau sạch chất nhày toàn thân, cột rốn cách thành bụng 4 cm và cắt rốn cách chỗ cột 1 cm. Chỉ cột rốn và kéo cắt rốn phải được sát trùng cẩn thận. Sau khi cắt rốn phải kiểm tra xem có rỉ máu vì cột rốn không chặt. Nhúng rốn vào dung dịch cồn iốt 5% để sát trùng. Heo sơ sinh được cắt bỏ 8 răng nhằm tránh gây đau vú mẹ khi bú.

- Có thể không cột và cắt rốn nếu nhúng rốn bằng bột ủ úm. Bột này cũng được dùng sát trùng âm hộ nái sau đẻ, nhúng toàn thân heo con để giữ ấm (trừ phần đầu).

- Nên úm heo con sơ sinh nếu nhiệt độ bên ngoài lạnh nhằm tránh tình trạng heo con tiêu hao nhiều năng lượng để chống lạnh. Nhiệt độ úm khoảng 30 – 33 độ C. Ta nên cho heo con bú ngay khi chúng ủi nhau tìm bú vì heo con bắt đầu đói. Không nên giữ lâu trong ổ úm, chúng có thể bú rốn lẫn nhau gây nhiễm trùng rốn hoặc tuột chỉ cột rốn, gây chảy máu nguy hiểm cho con bú rốn và con bị bú rốn. Khi heo con trong ổ úm tản ra nghĩa là nhiệt độ úm cao, nên hạ nhiệt độ.

- Nên làm vệ sinh kỹ các vú. Mỗi vú thường có hai lỗ tia sữa. Các lỗ này thường ứ đọng các chất bẫn hoặc phân. Nơi đây chứa nhiều mầm bệnh, cần cạy bỏ và nặn bỏ vài tia sữa đầu. Lau sạch vú bằng thuốc sát trùng nhẹ trước khi cho heo con bú. Hiện nay có những chế phẩm gamma globulin dùng cho heo con sơ sinh uống để tăng cường miễn dịch chống bệnh.


- Cho heo con bú sớm cũng kích thích nái đẻ tiếp những con còn trong bụng. Những kích thích của heo con ở đầu vú sẽ dẫn truyền về não, não thùy tiết ra hormon prolactin (tạo sữa) và oxytocin (giúp thải sữa). Chính oxytocin đến thành tử cung sẽ kích thích co bóp và đẩy bào thai còn lại ra ngoài. Nên lót rơm cỏ sạch, hoặc bao bố cho heo con nằm bú nhằm tránh lạnh bụng và trầy xước cuống rốn, cổ chân trước của heo con sơ sinh.

- Có thể sử dụng một số chế phẩm xịt để bảo vệ đầu núm vú hoặc mặc áo cho heo con cái dự kiến chọn làm giống hậu bị sau này.

- Nên làm vệ sinh chuồng trại kỹ lưỡng sau khi nái đẻ xong. Cần giữ ấm cho heo con (cho bú xong nên nhốt vào ổ úm) ít nhất trong vòng 3 - 7 ngày. Nên cho bú từng cữ cách nhau mỗi 1 giờ rưỡi đến 2 giờ và tránh tình trạng nái bị mệt đè đạp con. Riêng đối với nái cũng cần giữ cho thoáng mát, tránh nóng, tránh lạnh, tránh gió lùa mưa tạt. Một số nơi đã nhập tấm sưởi giúp giữ ấm cho heo con tốt hơn đèn dây tóc, đèn hồng ngoại.

- Phải cho tất cả heo con bú được sữa đầu (colostrum) vì sữa đầu chỉ sản xuất trong khoảng 24 giờ sau khi nái đẻ và heo con chỉ hấp thụ sữa đầu tốt nhất trong 24 giờ sau khi sinh. Sữa đầu thường đậm đặc hơn sữa thường, chứa nhiều sinh tố A, nhiều protein mà đặc biệt là gamma globulin (kháng thể) của mẹ để truyền cho heo con, giúp heo con kháng bệnh trong thời kỳ bú mẹ, trong khi khả năng sản xuất kháng thể heo con còn yếu, chưa hoàn thiện. Vì vậy trong 24 giờ đầu ngoài việc cho heo con bú được sữa đầu, cần hạn chế tối đa sự nhiễm trùng cho heo con. Đây là giai đoạn tranh đua giữa sự hấp thu kháng thể để bảo vệ heo con chống bệnh và chống nhiễm trùng. Nếu sự hấp thu kháng thể nhanh mà sự xâm nhiễm mầm bệnh chậm thì heo con có sức đề kháng bệnh. Ngược lại sự nhiễm khuẩn diễn ra nhanh hơn sự hấp thu kháng thể, sức khỏe của heo con bị đe dọa. Heo sơ sinh có thể chết hàng loạt vì nhiễm trùng trong những giây phút đầu của tuần lễ đầu sau khi sinh.

- Những vú ngực của nái thường có khả năng tiết sữa tốt. Những vú áp chót thường có sữa lúc đầu rồi sau đó ngưng tiết sữa. Vú chót thường sản xuất nhiều sữa nhưng dễ bị viêm, nhất là sau khi cai sữa. Heo con nhỏ vóc khi bú những vú nhiều sữa thì mau lớn, nhưng chúng tiêu thụ sữa không nhiều, nên sữa còn sót lại trong núm vú gây viêm vú dẫn đến kém sữa hoặc bẹt sữa ở các lứa đẻ sau.

- Cho heo con bú từng cữ cũng có lợi là đánh thức chúng, tránh tình trạng nái nhiều sữa heo con bú no, ngủ nhiều. Vì khoảng cách giữa hai lần bú xa nhau, heo con không bú hết sữa mỗi lần nái xuống sữa. Sữa ứ đọng trong vú tạo điều kiện cho vi khuẩn từ môi trường xâm nhiễm và phát triển gây viêm vú và làm rối loạn tiêu hóa heo con. Vì vậy những nái có khả năng sinh sữa nhiều, khoảng cách giữa hai lần bú khoảng 1 giờ là tốt. Heo con bú nhiều cữ trong những ngày đầu cũng kích thích nái tiết nhiều oxytocin để co bóp tử cung, tống các sản dịch ra ngoài nhanh hơn. Tình trạng ứ đọng những chất dịch dễ gây viêm đường sinh dục, nhất là vòi trứng, cổ tử cung bị viêm tắc nghẽn, nái bị vô sinh sau này.

Bài viết đã được mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn: Th.s Võ Văn Minh Th.s Bùi Thị Kim Phụng – ĐH Nông Lâm TP. HCM.

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Mô hình nuôi Heo thịt hướng nạt

Mô hình nuôi Heo thịt hướng nạt


Mô hình nuôi heo thịt hướng nạt by KN TP | Mo hinh nuoi heo thit huong nat

- Củ Chi là huyện ngoại thành mà sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, bên cạnh đối tượng là cây trồng như lúa, rau, hoa… thì nuôi heo cũng được bà con nông dân quan tâm nhất là những hộ nông dân ít vốn, nghèo. Thực hiện chủ trương cúa Trung tâm Khuyên nông trong việc thực hiện chương trinh khuyến nông hỗ trợ cho hộ nghèo, góp phần giảm hộ nghèo tăng hộ khá của thành phố, năm 2010, trạm Khuyến nông Củ chi đã triển khai mô hình “ Chăn nuôi heo thịt hướng nạc đảm bảo vệ sinh môi trường” tại 2 xã Thái Mỹ và Xã An Phú.


- Mô hình được thực hiện cho 12 hộ nghèo, với 24 con giống heo thịt (mỗi hộ 2 con)/heo lai 3 máu (Yorkshire x Landrace x Duroc) hoặc 4 máu (Yorkshire x Landrace x Duroc x Pietrain ) được mua từ các trại heo có uy tín trên địa bàn thành phố, đây là loại heo có tỷ lệ nạc cao (từ 55 - 57%), tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp. Sau hơn 3 tháng (heo giống có trọng lượng 20 kg/con) đưa vào nuôi cho thấy, đàn heo sinh trưởng phát triển tốt, trọng lượng đạt bình quân từ 92 - 95 kg/con, mức tăng trọng đạt 720 - 750g/con/ngày, tỷ lệ tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng (FCR) = 2,45 (đạt mục tiêu mô hình đề ra). Trong quá trình nuôi bà con nông dân được hướng dẫn áp dụng quy trình kỹ thuật chăn nuôi heo thịt hướng nạc đảm bảo vệ sinh môi trường và sử dụng thuốc thú y có kiểm soát nên đàn heo không bị dịch bệnh. Chất thải chăn nuôi được xử lý trước khi tận dụng làm thức ăn cho cá và bón cho cây xanh, các hộ có điều kiện thì đưa vào bể biogas xử lý, vừa đảm bảo môi trường sạch sẽ lại có khí gas đun nấu trong gia đình.

- Kết thúc thời gian thực hiện mô hình, Anh Triều ở ấp An Hòa, xã An Phú – Huyện Củ Chi phấn khởi chia sẻ: "Chăn nuôi heo theo phương thức này không bị dịch bệnh, heo dễ nuôi, lớn nhanh, hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với giống heo lai tạp kém phẩm chất tại địa phương. Sau hơn 3 tháng nuôi cho lãi trên 1.200.000 đồng/con (giá heo hơi 54.000đ/tạ), đặc biệt chăn nuôi heo thịt hướng nạc đảm bảo vệ sinh môi trường kết hợp với xây dựng bể biogas không phải mất nhiều công trong việc xử lý chất thải mà còn tiết kiệm khoảng 200.000 đồng/tháng tiền mua chất đốt".

- Trong khi đó Ông Hồ Văn Diên, ấp Mỹ Khánh B, Xã Thái Mỹ - Huyện Củ Chi. Hộ tham gia mô hình thuộc diện hộ nghèo cho biết : “Chăn nuôi heo theo kỹ thuật của cán bộ khuyến nông hướng dẫn về biện pháp phòng trừ dịch bệnh, thường xuyên vệ sinh tiêu độc khử trùng đã giảm được dịch bệnh, không ô nhiễm môi trường, heo tăng trọng nhanh…Đây là mô hình rất dễ áp dụng, phù hợp với điều kiện chăn nuôi theo hình thức hộ gia đình, nhất là các hộ nghèo.... Sau hơn 3 tháng nuôi, trọng lượng heo đạt bình quân 92 - 95 kg/con; giá bán 54.000 đồng/kg heo hơi, sau khi trừ chi phí 1.200.000 – 1.500.000 đồng/con. Đây là mức lời mà tôi chưa từng thấy bao giờ”.

- Trong buổi hội thảo tổng kết mô hình, Ông Nguyễn Văn Hoàng - Chủ tịch Hội Nông dân xã Thái Mỹ (xã nông thôn mới) cho biết: "Để nhân rộng mô hình này trong thời tới, ngoài việc tổ chức tập huấn chuyển giao KHCN, tuyên truyền vận động người dân áp dụng KHKT mới thì cần có sự hỗ trợ cho người dân có điều kiện chủ động nguồn cung cấp con giống đảm bảo chất lượng, đẩy mạnh công tác thú y, chăn nuôi heo theo hướng VietGAHP. Một yếu tố khá quan trọng là phải giúp cho được người chăn nuôi tìm đầu ra cho sản phẩm để bà con an tâm sản xuất".

- Thành công bước đầu mô hình nuôi heo thịt hướng nạc đảm bảo vệ sinh môi trường (hỗ trợ hộ nghèo) tại các xã nông thôn mới ở Huyện Củ Chi góp phần giúp người dân nâng cao hiệu quả kinh tế, đổi mới tư duy, phương thức sản xuất đồng thời tạo nguồn thực phẩm tốt, sạch bệnh cung cấp cho thị trường vốn đang dần đòi hỏi về chất lượng, tăng thu nhập cải thiện đời sống từng bước giúp các hộ này vươn lên trong cuộc sống. Để nhân rộng mô hình, thiết nghĩ, các địa phương cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật trên các phương tiện thông tin đại chúng và cung cấp các địa chỉ về cung ứng giống, thức ăn, thuốc thú y ... Nếu làm tốt các phần việc đó, tin rằng, người dân sẽ đổi mới phương thức chuyển sang chăn nuôi theo quy trình thâm canh đảm bảo vệ sinh môi trường, hạn chế dịch bệnh. Đây chính là cách để vừa khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về đất đai, lao động tại địa phương, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho người sản xuất, góp phần xây dựng nông thôn mới phù hợp với xu hướng phát triễn của xã hội.

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Những điều cần biết khi chăm sóc Lợn nái

Những điều cần biết khi chăm sóc Lợn nái




- Lợn nái chửa nuôi theo 2 giai đoạn: giai đoạn I (84 ngày chửa đầu) khối lượng bào thai đạt khoảng 25 - 30%; giai đoạn II (khoảng 30 ngày chửa cuối) bào thai phát triển nhanh, chiếm khoảng 65 - 70% khối lượng lợn con sơ sinh. Vì vậy để lợn con đạt khối lượng sơ sinh cao cần tăng khoảng 25 - 30% lượng thức ăn cho lợn nái chửa kỳ II, mức tăng tuỳ thuộc vào thể trạng béo hay gầy của lợn nái.

- Trong thời kỳ mang thai, lợn nái cần lượng chất khoáng nhiều hơn để phát triển hệ xương của bào thai. Khi khẩu phần ăn của lợn mẹ không đủ, sẽ phải huy động nhiều chất khoáng từ cơ thể lợn mẹ (đặc biệt là canxi và phốt pho từ xương) để nuôi thai. Vì thế, lợn mẹ bị thiếu chất khoáng và dễ dẫn tới bại liệt.

- Bã rượu và thức ăn ủ men có chứa chất kích thích, dễ gây sảy thai. Vì vậy chỉ nên cho lợn ăn dưới 15% trong khẩu phần.

- Đối với lợn nái chửa khi tiêm phòng vắcxin phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của bào thai và chủng loại vắcxin. Vì vậy, khi tiêm phòng cho lợn nên thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất vắcxin và cán bộ thú y. Chú ý không nên tiêm các loại vắcxin sống (vắc xin nhược độc) cho lợn nái chửa vì dễ gây ảnh hưởng đến thai.

- Những biểu hiện của lợn nái sắp đẻ: lợn nái sắp đẻ thường đi lại nhiều, đái dắt, cào ổ, âm hộ nở to và tiết dịch nhờn màu hồng, vú có thể chảy sữa.

- Cần chuẩn bị cho lợn nái đẻ: vệ sinh chuồng nuôi và lợn nái; chuẩn bị ô úm, lót chuồng và dụng cụ đỡ đẻ (vải xô mềm, cồn i-ốt, bông, kéo, panh, chỉ buộc rốn, kìm bấm nanh…)

- Những biểu hiện lợn đẻ khó: lợn nái co chân rặn nhiều, nước ối ra mà con không ra; quá 1 tiếng vẫn chưa đẻ con tiếp theo; lợn mẹ rặn đẻ yếu.

- Những biện pháp xử lý khi lợn đẻ khó:
+ Không vội vàng sử dụng ngay thuốc kích thích đẻ (oxytocin).
+ Kiểm tra ngôi thai: chụm thẳng 5 đầu ngón tay, nhẹ nhàng đưa vào qua âm đạo theo nhịp rặn đẻ của lợn nái. Dùng các đầu ngón tay lần tìm lợn con để xác định thai thuận ngôi hay không (chú ý phải cắt ngắn móng tay, rửa tay bằng xà phòng, sau đó thoa nhẹ lên tay một ít vadơlin hoặc dầu ăn).
+ Nếu là thai không thuận ngôi thì phải chỉnh theo hướng thai thuận rồi mới từ từ lôi ra theo nhịp rặn đẻ của lợn mẹ
+ Nếu là thai to thì lúc đó mới tiêm thuốc oxytocin và thuốc trợ lực cho lợn nái (liều sử dụng theo chỉ dẫn của nhà sản xuất) kết hợp nhẹ nhàng lôi lợn con ra theo nhịp rặn đẻ của lợn mẹ.
+ Nên mời cán bộ thú y trợ giúp khi xác định là lợn nái đẻ khó.

- Khi lợn đẻ bọc phải xé bọc ngay, khẩn trương lấy dịch ở miệng và mũi của lợn con, dùng vải xô, vải mềm, giấy vệ sinh lau sạch lỗ mũi lợn. Lợn con bị ngạt phải thổi hơi ngay vào mồm lợn. Nếu lợn con chưa tỉnh thì ngâm lợn chìm trong nước ấm (30 – 35 độ C) khoảng 5 - 10 phút rồi hô hấp nhân tạo.

Những điều cần biết về chăm sóc lợn nái, Nguồn: Khuyến nông Việt Nam.

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Kỹ thuật nuôi heo nái

Kỹ thuật nuôi heo nái


A. Kỹ thuật nuôi heo nái và heo nuôi con
I. Chuồng trại
1. Chọn địa điểm cao ráo sạch sẽ, thoáng mát, có rèm che lúc mưa gió. Nên xây dựng chiều dài chuồng theo hướng Đông - Tây để tránh bức xạ mặt trời.

2. Nền chuồng làm bằng xi măng, có độ dốc khoảng 2 %, không tô láng (để tránh hiện tượng heo bị trượt). Diện tích chuồng nái nuôi con khoảng 5-6 m2/con, có ô úm cho heo con từ 0,8 - 1 m2/ô. Có máng ăn, núm uống tự động riêng biệt đúng kích cỡ. Ngoài chuồng có rãnh thoát phân và hố phân cách xa chuồng.
3. Có điều kiện nên nuôi heo nái bằng lồng sắt, dùng núm uống tự động (tham khảo kiểu chuồng ở các trại chăn nuôi tiên tiến).
4. Mẫu chuồng lồng nuôi heo nái và heo con



II. Chọn heo giống
1. Nên chọn heo giống Yorkshire hoặc lai giữa Yorkshire với heo Landrace. Không nên chọn heo lai 3-4 máu để làm nái hậu bị.
2. Chọn ở các giai đoạn khác nhau, đặc biệt chọn giai đoạn heo 7-8 tháng tuổi đạt trọng lượng 90-100 kg để phối giống.
3. Chọn những con dài thân, mông vai nở, háng rộng, bốn chân thẳng, chắc chắn, có bộ móng tốt, âm hộ (hoa) phát triển tốt, núm vú nổi rõ, hai hàng vú thẳng phân bố đều, khoảng cách hai hàng vú gần nhau là tốt. Heo nái có ít nhất 12 vú trở lên. Chú ý nên chọn những con có tính tình hiền lành.
4. Có thể chọn mua heo giống ở các trại chăn nuôi, hoặc chọn heo con từ những con nái tốt của hàng xóm.
5. Đối với heo thịt nên chọn nuôi heo lai 3 máu để phát huy ưu thế lai (heo mau lớn, khả năng chống bệnh cao, tỷ lệ nạc nhiều…).

III. Heo lên giống và phối giống
1. Phối giống cho heo vào thời gian 7-8 tháng tuổi đạt trọng lượng từ 90-120 kg.
2. Heo lên giống ăn ít hoặc bỏ ăn, cắn phá chuồng, kêu réo liên tục, nhảy lên lưng của heo khác, âm hộ sưng đỏ, có thể có nước nhầy chảy ra.
3. Thời gian heo lên giống từ 3-5 ngày, phối giống vào cuối ngày thứ hai hoặc sang ngày thứ ba là tốt. Phối vào lúc heo chịu đực. Biểu hiện heo chịu đực: heo đứng im cho con khác nhảy lên lưng nó, hoặc người dùng hai tay ấn mạnh lên lưng heo vẫn đứng im, dịch nhờn âm hộ keo đặc lại.
4. Có thể phối giống bằng heo đực nhảy trực tiếp hoặc bơm tinh nhân tạo, nên phối kép (phối hai lần), lần phối thứ hai cách lần phối thứ nhất từ 6-8 giờ.
5. Không nên dùng heo đực có trọng lượng quá lớn nhảy với heo nái mới phối lần đầu. Chuồng cho heo phối phải sạch sẽ, nên rải rơm hoặc cỏ khô xuống dưới nền chuồng là tốt nhất.

IV. Chăm sóc nuôi dưỡng heo nai mang thai
1. Sau thời gian phối từ 18-21 ngày nếu heo không đòi đực lại thì coi như heo đã có chửa. Thời gian heo chửa 114 ngày (3 tháng + 3 tuần + 3 ngày) ± 3 ngày.
2. Giai đoạn 1-90 ngày tùy tầm vóc của heo nái mập, gầy mà cho ăn lượng thực phẩm hợp lý 2-2,5 kg/ con/ngày. Từ 91 ngày trở đi cho heo ăn tăng lên từ 2,5-3,0 kg/con/ngày. Trước khi sinh 3 ngày phải giảm thức ăn xuống từ 3 kg - 2 kg - 1 kg/ngày. Ngày heo đẻ có thể không cho ăn để tránh sốt sữa.
3. Trong thời gian chửa 2 tháng đầu không nên di chuyển heo nhiều, tránh gây sợ sệt heo sẽ bị tiêu thai. Trong thời gian chửa nên cho heo ăn thêm rau xanh, cỏ xanh.
4. Cung cấp nước sạch cho heo uống theo nhu cầu.

V. Chăm sóc nái đẻ và heo con theo mè
1. Trước ngày heo đẻ 2-3 ngày, vệ sinh chuồng trại, tắm chải heo mẹ sạch sẽ, diệt ký sinh trùng ngoài da.
2. Heo nái sắp đẻ biểu hiện: Ỉa đái vặt, bầu vú căng mọng, bóp đầu vú sữa vọt ra, khi thấy nước ối và phân xu, heo nái rặn từng cơn là heo con sắp ra.
3. Heo con đẻ ra dùng giẻ sạch lau nhớt ở miệng, mũi, lau khô, cắt rốn, bấm răng bỏ vào ô úm (sát trùng cuống rốn và dụng cụ bằng bông y tế nhúng cồn Iốt). Sau đó cho heo con bú "sữa đầu" càng sớm càng tốt để có sức đề kháng chống lại những nhiễm khuẩn phổ biến, giữ ấm cho heo con từ 31-33 0C trong mấy ngày đầu bằng bóng đèn điện hoặc rơm, bao bố.
4. Bình thường heo đẻ 5-10 phút/con. Nếu ra nước ối và phân xu sau 1-2 giờ rặn đẻ nhiều mà không đẻ hoặc con nọ cách con kia trên 1 giờ thì phải mời thú y can thiệp.
5. Trường hợp heo mẹ khỏe, bình thường không nằm đè con thì nên cho heo con bú tự do là tốt nhất. Nếu nhốt vào ô úm thì tối thiểu cho bú 1 giờ 1 lần. Nên sắp xếp heo con có khối lượng nhỏ cho bú vú phía trước để đàn heo con phát triển đều.
6. Heo con đẻ ra trong 1-3 ngày đầu chích sắt liều 200 mg/con (1-2 cc/con). Nếu heo mẹ thiếu sữa thì có thể cho heo con ăn dặm thêm các chế phẩm dinh dưỡng dành cho heo con sơ sinh. Từ 7-10 ngày tập cho heo con ăn bằng loại thức ăn dễ tiêu. Thiến heo đực vào khoảng 3-7 ngày tuổi.
7. Nên tập heo con ăn sớm để có thể cai sữa. Tùy điều kiện thức ăn và tình trạng đàn heo mà cai sữa hợp lý. Nên cai sữa vào khoảng từ 28-35 ngày tuổi.
8. Heo mẹ đẻ xong, theo dõi số lượng nhau ra. Thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1%. Ngày thụt 2 lần, mỗi lần 2-4 lít, nếu sốt cao phải chích kháng sinh, hoặc mời thú y can thiệp.
9. Heo nái đẻ xong nên cho ăn tăng dần, từ ngày thứ 3 hoặc thứ 4 trở đi cho ăn thỏa mãn nhu cầu.
10. Thời kỳ heo nái nuôi con, thức ăn phải tốt, máng phải sạch sẽ, không để thức ăn mốc, thừa, máng uống phải luôn đầy nước vì heo tiết sữa sẽ uống rất nhiều nước, không nên thay đổi thức ăn của heo nái.

VI. Cai sữa heo con
1. Gần ngày cai sữa nên giảm lần bú của heo con và tăng lượng thức ăn để chuẩn bị cho giai đoạn sống tự lập. Đồng thời giảm thức ăn của heo mẹ để giảm tiết sữa.
2. Ngày cai sữa cho heo mẹ nhịn ăn, sau đó cho ăn tăng lên để sớm động dục lại. Sau cai sữa 4-7 ngày heo nái động dục lại là tốt. Heo con giảm ½ khẩu phần sau đó tăng lên từ từ theo đủ nhu cầu.
3. Heo con sau cai sữa cần được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt, nên nuôi heo trên lồng sắt sau cai sữa là tốt nhất.

VII. Sử dụng thức ăn cho heo mẹ và heo con
1. Heo nái nuôi con: Nên sử dụng thức ăn hỗn hợp của các xí nghiệp thức ăn gia súc có uy tín, mới sản xuất.
2. Heo con từ tập ăn đến 20 kg: Nên sử dụng thức ăn hỗn hợp của các xí nghiệp thức ăn gia súc có uy tín, mới sản xuất.
3. Khi dùng thức ăn đậm đặc trộn với nguyên liệu địa phương thì: Phải trộn theo tỷ lệ của nhà sản xuất. Yêu cầu dùng nguyên liệu thật tốt, không bị ẩm mốc, sâu mọt.

B. Kỹ thuật nuôi heo thịt
I. Thức ăn và cách cho ăn
1. Thức ăn: Thức ăn là yếu tố quan trọng nhất trong chăn nuôi heo thịt, thức ăn tốt giúp heo mau lớn, lãi suất cao, nâng cao phẩm chất quầy thịt. Tùy theo điều kiện cụ thể của từng hộ chăn nuôi mà sử dụng các phương thức sau:
- Dùng thức ăn đậm đặc trộn nguyên liệu sẵn có ở địa phương.
- Dùng thức ăn tự trộn.
- Dùng thức ăn hỗn hợp (hay cám bao) của các Xí nghiệp Thức ăn gia súc có uy tín.

* Chú ý: Khi phối hợp khẩu phần cần lưu ý đến tỷ lệ tối đa của một số nguyên liệu.
- Khoai mì: Có chứa HCN rất độc, nên sử dụng nguyên liệu đã qua chế biến.
- Đậu nành phải được rang chín, nếu cho ăn sống dễ gây tiêu chảy, nhưng không nên rang cháy.
- Bột cá: Sử dụng bột cá loại tốt, không nên để lẫn sạn, cát…
- Premix: Là chế phẩm bổ sung thêm axit amin, vitamin, khoáng vi lượng… Premix có nhiều loại khác nhau Aminoaxit (Mỹ), Vitamin (Nhật), Embavit (Anh), premix cho các loại heo số 1-4 (Bayer), Polypac (Đại học Nông lâm Tp HCM). Liều lượng theo lời chỉ dẫn.
- Một số công thức trộn thức ăn heo thịt (để tham khảo):

2. Chế độ cho ăn
Khi heo mới bắt về cho ở chuồng riêng càng xa heo cũ càng tốt. Ngày đầu không nên tắm heo, nên cho heo ăn (nhất là heo con) ăn khoảng 1/2 nhu cầu, sau 3 ngày mới cho ăn no, thời gian đầu sử dụng cùng loại thức ăn với nơi bán heo, sau đó nếu thay đổi loại thức ăn thì phải thay đổi từ từ.
Căn cứ vào đặc điểm phát triển của heo và điều kiện chăn nuôi của từng hộ mà có 2 phương thức cho ăn:
- Phương thức cho ăn tự do: Cho heo ăn tự do theo nhu cầu từ cai sữa đến xuất chuồng. Phương thức này có ưu và khuyết điểm như sau:
+ Ưu điểm: Heo mau lớn nên thời gian nuôi ngắn, quay đồng vốn nhanh.
+ Khuyết điểm: Không tiết kiệm được thức ăn, heo có tỷ lệ mỡ cao.
- Phương thức cho ăn định lượng:
¨ Heo dưới 60 kg: Ở giai đoạn này cho ăn tự do theo nhu cầu phát triển của heo (ở giai đoạn dưới 30 kg nên cho heo ăn nhiều bữa trong ngày).
¨ Từ 61 kg đến lúc giết thịt: Ở giai đoạn này nếu cho ăn nhiều heo sẽ mập do tích lũy mỡ, nên cho ăn hạn chế khoảng 2,3 - 2,7 kg/con/ngày và sử dụng đúng loại thức ăn. Phương thức này có ưu và khuyết điểm như sau:
+ Ưu điểm: Tiết kiệm được thức ăn, heo có tỷ lệ nạc cao hơn phương thức cho ăn tự do.
+ Khuyết điểm: Thời gian nuôi kéo dài.

II. Nước uống
Nước uống cho heo phải sạch sẽ và đủ lượng nước theo nhu cầu.

III. Chăm sóc
- Luôn đảm bảo đàn heo sạch sẽ, thoáng mát, khu vực chăn nuôi phải yên tĩnh, không xáo trộn ảnh hưởng đến heo.
- Thường xuyên kiểm tra phát hiện những trường hợp bất thường xảy ra. Đánh dấu theo dõi, kiểm tra thức ăn hàng ngày để điều chỉnh kịp thời.
- Thường xuyên kiểm tra nước uống, thức ăn trước khi dùng.

IV. Xuất bán heo
- Khi đến thời kỳ xuất chuồng chúng ta có thể sử dụng công thức để ước tính trọng lượng heo: P (kg) = 87,5 x (vòng ngực)2 x dài thân
Ví dụ: Heo có vòng ngực 90 cm, dài thân 85 cm, thì trọng lượng sẽ là: 87,5 x (90)2 x 85 = 60,24 kg.
Lưu ý: Khi đo phải để heo đứng ở tư thế thoải mái.
- Nên xuất heo vào giai đoạn đạt trọng lượng từ 90-100 kg/con.
- Nếu đang dùng kháng sinh để phòng bệnh thì phải ngưng thuốc từ 1-2 tuần trước khi xuất chuồng.
- Ngày xuất chuồng phải tắm rửa vệ sinh sạch sẽ. Nên xuất chuồng vào buổi sáng sớm hoặc xế chiều, cho uống nước đầy đủ, không nên cho ăn no tránh heo chết do vận chuyển.

C. Phòng ngừa dịch bệnh
I. Vệ sinh phòng bệnh
1. Vệ sinh chuồng trại
- Ngăn cách khu vực chăn nuôi heo với các súc vật khác như: Chó, mèo…
- Rửa và phun thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ ít nhất 3-7 ngày trước khi thả heo vào chuồng. - Hàng ngày phải quét phân trong chuồng giữ cho chuồng luôn khô ráo, sạch sẽ. - Xử lý xác chết gia súc nghiêm ngặt: Chôn sâu, đốt...
- Nên có kế hoạch rửa chuồng, phun thuốc sát trùng và diệt ruồi, muỗi mỗi tháng một lần.

2. Vệ sinh thức ăn và nước uống
- Thường xuyên kiểm tra thức ăn trước khi cho heo ăn, thức ăn phải đảm bảo chất lượng, không bị thiu, thối, mốc…
- Nếu sử dụng thức ăn tự trộn thì định kỳ phải trộn kháng sinh vào thức ăn để ngừa bệnh cho heo.
- Nước uống phải đủ, sạch và không bị nhiễm bẩn.

II. Tiêm phòng cho heo
1. Heo nái
- Trước khi phối giống chích ngừa đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn.
- Định kỳ chích ngừa cho heo nái các bệnh giả dại, parvovirus, viêm phổi theo sự hướng dẫn của nhà sản xuất.
2. Heo con
- Chích ngừa đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh phó thương hàn, tụ huyết trùng, dịch tả, sau 2-3 tuần chích lập lại lần 2.
- Bắt buộc chích ngừa bệnh Lở mồm long móng và cấp giấy chứng nhận tiêm phòng bệnh lở mồm long móng theo sự hướng dẫn của trạm thú y địa phương.

D. Một số bệnh thường gặp
I. Bệnh viêm tử cung: Thường xảy ra sau khi sinh 1-5 ngày.
1 Nguyên nhân
- Bị nhiễm trùng khi phối giống do: Dụng cụ thụ tinh, tinh nhiễm khuẩn, thao tác thụ tinh không đúng kỹ thuật, không vệ sinh vùng âm hộ của heo nái khi phối, heo đực bị viêm niệu quản (khi phối trực tiếp).
- Bị nhiễm trùng khi sanh do: Chuồng trại thiếu vệ sinh, dụng cụ, tay không sát trùng, đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, heo con quá lớn khi đẻ gây xây xát, kế phát của bệnh sót nhau.

2. Triệu chứng
Heo sốt 40-41 độ C, kém ăn hoặc bỏ ăn, chất nhầy và mủ chảy ra ở âm hộ trắng đục hôi thối.

3. Điều trị
- Dùng một trong những loại kháng sinh sau: Ampicillin: 2 g/ngày; Penicillin: 3-4 triệu UI/2 lần/ngày; Tylan: 7-8 mg/kg trọng lượng/ngày; Septotrim 24% 1 cc/15 kg trọng lượng/ngày. Để tăng sức đề kháng và mau lành ta dùng thêm: Anagin: 2 ống 5cc; Vitamin C: 2 g/ngày; Dexamethasol: 5-10 mg/ngày.
- Thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1% ngày 1 lần từ 2-4 lít, sau khi thụt rửa 30 phút dùng Penicillin 2-3 triệu UI bơm vào tử cung.

II. Bệnh viêm vú
1. Nguyên nhân
Vú bị xây xát dẫn đến nhiễm trùng (do răng heo con cắt không sát, chuồng trại thiếu vệ sinh), kế phát bệnh viêm âm đạo, tử cung, sót nhau dẫn đến viêm vú, sữa mẹ quá nhiều, heo con bú không hết dẫn đến viêm vú.

2. Triệu chứng
Heo sốt cao 40-41 độ C, bỏ ăn, phân táo, vú sưng, nóng, đỏ, đau, vú viêm không cho sữa, vắt sữa thấy lợn cợn màu trắng xanh vàng. Heo con bú sữa viêm bị tiêu chảy.

3. Điều trị
- Nếu kế phát bệnh viêm âm đạo tử cung, sót nhau ta phải điều trị.
- Dùng thuốc kháng sinh và tăng sức đề kháng tương tự bệnh viêm tử cung.
- Chườm lạnh vú viêm để giảm hiện tượng viêm đồng thời vắt bỏ sữa bị viêm.
- Khi đã hồi phục để tăng khả năng cho sữa: Chườm nóng bầu vú, chích Oxitocin: 10 UI/ngày, 3-4 ngày, dùng chế phẩm có chứa Thyroxine, khoáng, vitamin bổ sung cho nái.
Chú ý: Ta nên chích kháng sinh vào quanh gốc vú hoặc tĩnh mạch để bệnh mau lành.

III. Bệnh mất sữa: Thường xảy ra từ 1-3 ngày sau sanh.
1. Nguyên nhân
Kế phát bệnh viêm vú, bệnh viêm tử cung, sót nhau, suy dinh dưỡng lúc mang thai, đặc biệt thiếu can xi, năng lượng, Vitamin C, suy nhược một số cơ quan nội tiết.

2. Triệu chứng
Vú căng nhưng không có sữa, sau đó teo dần, không sốt hoặc sốt cao (kế phát bệnh viêm vú, viêm tử cung, sót nhau), dịch nhầy chảy ra ở âm môn, đi đứng loạng choạng, có khi bị bại liệt, lượng sữa giảm dần rồi mất hẳn.

3. Điều trị
Nếu là kế phát bệnh viêm vú, viêm tử cung, sót nhau thì ta phải điều trị các bệnh này. Ngoài ra ta còn sử dụng: Thyroxine: 2 mg/ngày chích bắp hoặc tĩnh mạch 4-5 ngày (hoặc dùng các chế phẩm kích thích tiết sữa: Lactoxil, Thyroxine… cho nái ăn); chích Oxitoxine: 10 UI/lần/ngày dùng 4-5 ngày; Glucoza 5%: 250 cc/ngày 3-4 ngày chích tĩnh mạch, phúc mạc hay dưới da; Gluconatcanxi 10%: 10 cc/ngày chích tĩnh mạch 3-4 ngày (nếu nái bị bại liệt ta dùng Gluconatcanxi: 50 cc/ngày 3-4 ngày) đồng thời ta dùng thêm Vitamin C, Vitamin B12, Bcomlex… và khoáng chất.

Chú ý: Khi dùng Thyroxin đòi hỏi thân nhiệt phải bình thường: 38 - 39 độ C.

IV. Bệnh heo con tiêu chảy phân trắng
Bệnh thường xảy ra ở heo con theo mẹ dưới 30 ngày tuổi.

1. Nguyên nhân
- Chuồng trại thiếu vệ sinh, lạnh, ẩm ướt.
- Đối với heo mẹ: Do thiếu dinh dưỡng lúc mang thai, đặc biệt thiếu vitamin A, thay đổi đột ngột khẩu phần heo mẹ lúc nuôi con, heo mẹ có thể bị một số bệnh: Phó thương hàn, viêm vú, viêm tử cung, sót nhau …
- Đối với heo con: Thiếu sữa đầu, thiếu nguyên tố vi lượng, đặc biệt là thiếu sắt, heo con bị viêm rốn, thức ăn cho heo con bị chất lượng kém, chua mốc, heo con bị nhiễm một số virus: Rotavirus, Coromavirus; Vi trùng Ecoli, Clostridium, Samonilla, cầu trùng.

2. Triệu chứng
Heo con thường không sốt hoặc sốt nhẹ, thời kỳ đầu bụng hơi chướng, về sau bụng tóp, lông xù, đít dính phân nhoe nhoét, ói mửa (ít xảy ra). Đặc trưng là phân lỏng trắng như vôi, vàng đôi khi có bọt, cá biệt có thể có máu, phân có mùi tanh đặc biệt.

3. Điều trị
Trước khi điều trị ta phải xác định rõ nguyên nhân, vừa điều trị nguyên nhân, vừa điều trị triệu chứng tiêu chảy trên heo con thì mới có kết quả. - Điều trị tiêu chảy: Thuốc cầm tiêu chảy (se niêm mạc ruột) cho uống các chất chát: Lá ổi, cỏ sữa, măng cụt... Bổ sung vi khuẩn đường ruột: Dùng Biolactyl: 1 g/con/ngày. Dùng kháng sinh uống hoặc chích một trong những loại sau (từ 2-3 ngày liên tục): + Uống: Baytrill 0,5%: 1 cc/5 kg trọng lượng/ngày; Flumcolistin: 1 cc/3-5 kg trọng lượng/ngày; Spectinomycine: 1 cc/4-5 kg trọng lượng/ngày; Baycox 2,5 %: 0,8 cc/kg trọng lượng/ngày (nghi bị cầu trùng). + Chích: Baytrill 2,5%: 1 cc/ 10 kg trọng lượng/ngày; Septotrim 24 %: 1 cc/10 kg trọng lượng/ngày; Bencomycine S: 1 cc/ 15-20 kg trọng lượng/ngày; TyloPC: 1 cc/5 kg trọng lượng/ngày. Để phòng mất nước, chất điện giải ta bổ sung thêm Orezol, Lactatringer…/

Kỹ thuật nuôi heo nái by st

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011

Kỹ thuật nuôi heo rừng đạt hiệu quả cao

Kỹ thuật nuôi heo rừng đạt hiệu quả cao

Hiện nay ở tỉnh ta có nhiều hộ trang trại chăn nuôi lợn rừng quy mô vừa và nhỏ, điển hình có trang trại của bà Nhị ở phường Chiềng Sinh thành phố Sơn La và trang trại của Công ty giống vật nuôi Tây Bắc tại tiểu khu Chiềng Đi thị trấn Mộc Châu (người dân ở đây thường gọi là trang trại lợn rừng anh Tuấn).

Cùng với xu hướng phát triển chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao, lợn lai kinh tế thì phát triển chăn nuôi lợn rừng, lợn bản đang là xu hướng phát triển của các hộ trang trại và xu hướng tiêu dùng của thị trường hiện nay, giá lợn rừng tương đối cao, sức tiêu thụ mạnh, nhưng việc chăn nuôi đang dừng lại ở kinh nghiệm. Để giúp hộ chăn nuôi nắm được những kỹ thuật cơ bản, năm 2009, Hội đồng khoa học của tỉnh đã nghiệm thu đề tài Phát triển chăn nuôi lợn rừng và cho phép phổ biến quy trình chăn nuôi lợn rừng trên địa bàn tỉnh Sơn La; Bản tin khuyến nông xin giới thiệu kỹ thuật chăn nuôi lợn rừng như sau:

1. Con giống:
- Lợn rừng có mầu lông hung, chân lông mọc từ 2-3 lông, sọc dưa (lúc lợn con đến lợn choai, khi lớn có mầu lông đen), đen; Lợn có mõm hơi dài hơn lợn địa phương của Sơn La, bụng thon hơn lợn bản và lợn ỉ, lợn có 12 vú.


- Chọn mua con giống cần chọn con điển hình về giống, nhanh nhẹn lưng thẳng bụng thon gọn, chân đi vững chắc, nếu chọn con cái về gây giống cần chú ý bầu vú có 12 vú đều nhau, chọn con đực về gây giống cần chọn con có dịch hoàn phát triển cân đối, có tính hăng, cần chú ý không chọn con cùng huyết thống với con cái để phối giống trực tiếp, tránh đồng huyết.

2. Chuồng trại:
- Nên chọn khu đất rộng nhiều cây cối (trang trại bà Nhị ở phường Chiềng Sinh) làm chuồng và sân chơi dưới tán vườn nhãn), trang trại anh Tuấn làm dưới tán mận của tiểu khu Chiềng Đi huyện Mộc Châu.

- Vị trí dự định chọn làm chuồng cần cao ráo, dễ thoát nước, ở trung tâm khu trang trại, xung quanh là sân chơi cần rộng cho chúng vận động, tắm nắng và để máng ăn, máng uống nước ngoài sân (để ở một khu theo quy định của chủ nuôi); Có lưới thép để phân đàn lợn theo lứa tuổi và sự đồng đều, tránh cho chúng cắn nhau.

- Vật liệu làm chuồng bằng tre, gỗ bìa bắp đơn giản, chuồng chủ yếu để cho chúng ngủ buổi tối, cho lợn mẹ chửa kỳ cuối và đang nuôi con; Chuồng gồm mái fibrô, nền cứng, thưng tre hoặc gỗ bìa bắp, trong chuồng có ổ ấm bằng rơm, cỏ khô…

3. Thức ăn
- Thức ăn thô xanh gồm cây chuối, thân cây ngô, rau các loại (kể cả rau dướng, rau tàu bay …), quả su su, đu đủ …

- Thức ăn tinh gồm cám gạo, bột ngô, sắn, khoai ..

- Thức ăn bổ sung đạm gồm đậu đỗ các loại (đậu tương, đậu thiều, đậu nho nhe ..), cá khô, bà mắm...

- Thức ăn bổ sung khác gồm bột Premix khoáng, vitamin …

a) Yêu cầu nguyên liệu
Nguyên liệu phải đảm bảo chất lượng: Không bị ẩm mốc, sâu, mọt, hấp hơi, có mùi là và không bị vón cục. Một số nguyên liệu cần được sơ chế trước để lợn dễ tiêu hoá (như đậu tương cần rang chín, vỏ sò, vỏ hến phải nung nóng trước khi nghiền …). Các loại nguyên liệu thức ăn trước khi phối trộn cần phải nghiền nhỏ. Khối lượng nguyên liệu phối trộn cần phải căn cứ vào số lượng lợn và mức ăn để trộn vừa đủ lượng thức ăn cho khoảng 5 - 7 ngày rồi lại trộn tiếp, tránh để lâu dễ phát sinh ẩm mốc



b) Các công thức phối trộn thức ăn
Tuỳ điều kiện chăn nuôi của hộ và loại nguyên liệu sẵn có của địa phương để phối trộn thức ăn sao cho vừa cân đối dinh dưỡng lại vừa hạ giá thành sản phẩm lợn hơi xuất chuồng, sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số công thức để hộ chăn nuôi tham khảo:


Nguyên liệu


(Kg)


Tỷ lệ phối trộn theo khối lượng lợn

(Tính cho 100 kg thức ăn)


10 – 30 kg


31 – 60 kg



61 kg trở lên


CT1



CT2


CT3


CT1



CT2


CT3



CT1


CT2



Bột ngô


33


23,5



42,5


28



44


31,5


26,8



45


Bột sắn



-


10



8


10


-



16


21



10


Tấm



33


27


18



10


17



-


5


15



Cám gạo


5



8


-



24


15


23



25


9,5


Bột đậu tương


13



17


18


25,5



13,5


27



17


12



Khô dầu lạc


9


-



7


-



5,5


-


3



4


Cá khô hoặc bột cá



4,5


5



5


-


3



-


-



2,5


Bột xương



1


1


1



1


1,5



-


-


1,5



Bột vỏ sò


1



-


-



1


-


2



1,7


-


Muối ăn


0,5



0,5


0,5


0,5



0,5


0,5



0,5


0,5



Giá trị dinh dưỡng


NLTĐ (Kcalo/kg)



3065


3068


3100



2986


2985



2985


2950


2996



Đạm thô (%)


17,9



18,0


18,0



16,1


16,1


16,0



14,0


14,1



Giới hạn tỷ lệ tối đa các loại nguyên liệu sử dụng trong phối chế khẩu phần ăn cho lợn:



Nguyên liệu



Tỷ lệ tối đa (%)


Nguyên liệu



Tỷ lệ tối đa (%)


Bột ngô



60


Khô đậu tương


20



Gạo, tấm


25



Đậu tương


25


Cám gạo


30



Khô dầu lạc


10



Bột sắn


25


Cá khô



10



Cách phối trộn thức ăn:


Đổ dàn đều các loại nguyên liệu đã nghiền ra nền nhà khô, sạch hoặc gạch lát theo thứ tự: Loại nhiều đổ trước, loại ít đổ sau; Đối với loại nguyên liệu có khối lượng ít như khoáng, vitamin phải trộn trước với một ít bột ngô hoặc cám gạo để tăng khối lượng sau đó mới trộn lẫn với các nguyên liệu khác để đảm bảo độ đồng đều. Dùng xẻng hoặc tay trộn thật đều, sau đó đóng thức ăn vào bao nilon, bên ngoài bao nilon là bao tải, buộc kín lại. Đặt bao thức ăn lên giá, không để vào chổ quá kín hoặc nơi ẩm ướt. Sau khi lấy cám ra cho lợn ăn cần buộc kín phần còn lại tránh ẩm, mốc. Chú ý chống chuột cán rách bao cám.

4. Chăm sóc nuôi dưỡng
- Hàng ngày quan sát đàn lợn để phát hiện dấu hiệu bất thường để xử lý kịp thời như dấu hiệu bệnh, động dục …

- Cho lợn ăn từ 2 - 3 bữa/ngày.

- Cho lợn uống nước sạch tự do.

5. Phòng trị dịch bệnh
Tuy lợn rừng có sức đề kháng cao nhưng chúng vẫn mắc các bệnh như lợn lai, lợn bản hoặc lợn có tỷ lệ nạc cao, người chăn nuôi cần định kỳ tiêm phòng các bệnh như Lở mồm long móng, dịch tả lợn, tụ huyết trùng ..; Định kỳ 4 - 6 tháng tẩy trừ giun sán ký sinh, trị ghẻ, rận rệp … theo quy định của cơ quan thú y./.
Kỹ thuật nuôi heo rừng theo Nguyễn Quốc Tuấn