Những bệnh thường gặp trong sản xuất giống Tôm Càng Xanh
Những bệnh thường gặp trong sản xuất giống tôm càng xanh by Khuyến Nông | Nhung benh thuong gap trong san xuat giong tom cang xanh
Tôm càng xanh (TCX) Macrobrachium, là loài giáp xác sống và phát triển chủ yếu trong môi trường nước ngọt, kích thước cá thể lớn, thịt thơm ngon, được nhiều người ưa chuộng, có giá trị kinh tế cao. Nguồn TCX trong sông ngòi tự nhiên ở miền Nam nước ta rất phong phú, nhưng do khai thác không hợp lý, sản lượng ngày càng giảm và cạn kiệt. Do đó việc sản xuất tôm giống là cần thiết. Tuy nhiên, trong sản xuất giống, tôm càng xanh thường mắc một số bệnh sau:
1. Bệnh gây chết giữa chu kỳ nuôi
- Bệnh này thường gặp khi đã nuôi ấu trùng từ 10 - 20 ngày, khi bị bệnh ấu trùng thường chết rất nhiều, sau 2 - 3 ngày có thể chết hết .
- Triệu chứng là: ấu trùng yếu, bơi lội chậm chạp hơn bình thường, màu sắc xám nhạt (sau 10 ngày nuôi màu sắc của ấu trùng thường nâu sáng), ăn yếu và chậm ( tôm khoẻ mạnh sau 10 ngày nuôi khi cho Artemia vào sau 2 giờ ấu trùng ăn hết).
- Khi xem ấu trùng qua kính hiển vi thấy phần gan tụy tạng co lại, nhỏ hơn bình thường,các sắc tố bị mất. Khi quan sát bể vào ban đêm thấy có hiện tượng những con tôm chết phát sáng, xem qua kính hiển vi thấy có vi khuẩn Coccobacilli trong ruột tôm rất nhiều. Hiện tượng phát sáng là do vi khuẩn này gây nên.
- Sử dụng thuốc kháng sinh không có hiệu qủa, khi bị bệnh này thường phải xả bỏ, vệ sinh làm đợt mới, tuy nhiên bệnh này ít gặp.
- Phòng ngừa bệnh bằng cách: Vệ sinh kỹ toàn bộ trại sau một chu kỳ sản xuất, phơi khô trại sau 10 ngày, khi nuôi quản lý chăm sóc tốt nhằm hạn chế mắc bệnh.
2. Bệnh lột xác dính vỏ
- Bệnh này thường xảy ra khi ấu trùng ở giai đoạn PL 10-11, khi ấu trùng lột xác vỏ bị dính lại ở chủy (dạng nhẹ), dính ở chân ngực, không bơi được và chết, xảy ra chủ yếu vào ban đêm khi tôm lột xác. Tỷ lệ lột xác bị dính thường từ 10 –30%.
- Nguyên nhân gây bệnh không xác định được rõ ràng, có nhiều tác giả cho rằng do hàm lượng NH4 – N trong bể nuôi cao, hoặc thiếu khoáng chất.
- Phòng trị bằng cách, sử dụng formaline 10 – 15ppm kích thích tôm lột xác, cho thêm khoáng vi lượng, vitamin C vào trong thức ăn, giúp hạn chế mắc bệnh. Đặc biệt nên sử dụng vi sinh trong quá trình sản xuất.
3. Bệnh do nguyên sinh động vật
- Trong sản xuất giống tôm và cá thường bị bệnh này, ở TCX thường thấy xuất hiện nhiều các loại sau: Zoothamnium, Epistylis, Acineta, Vocticella…Trong đó, Zoothamnium hay gặp nhiều nhất. Chúng ký sinh ở các phần phụ như chủy, chân ngực, chân bụng, đuôi khi chúng phát triển nhiều ấu trùng không lột xác được dẫn tới chết.
- Nguyên nhân gây bệnh: Do xử lý tôm mẹ không tốt, mang mầm bệnh vào bể, hoặc chăm sóc kém, thức ăn dư thừa nhiều, hàm lượng hũu cơ trong bể cao cũng sinh ra bệnh này.
- Cách phòng trị: Chăm sóc cho ăn, quản lý môi trường tốt, tạo điều kiện cho ấu trùng lột xác nhanh, định kỳ xi phông sạch đáy bể, thay nước đúng định kỳ giữ môi trường nuôi tốt ít sẽ hạn chế tối đa bệnh này
- Cách trị: sử dụng triflutralin 48% với liều lượng 1cc/m3 nước, hoặc Iodine 5cc/m3.
4. Bệnh hoại tử
- Bệnh này thường hay gặp trong sản xuất giống tôm càng cũng như tôm biển, ở TCX bệnh thường xuất hiện từ giai đoạn PL5 trở đi. Khi quan sát trong bể nuôi thấy ấu trùng tôm bơi không bình thường, hoặc chìm nhiều ở đáy bể, quan sát trên kính hiển vi thấy các phần phụ cuả ấu trùng bị ăn mòn, hoặc cụt như chủy, chân bụng, chân ngực, chỗ bị ăn mòn có màu vàng cam. Khi bị bệnh nặng, không trị kịp thời ấu trùng chết nhiều.
- Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do vi khuẩn và môi trường nuôi không tốt, trong đó yếu tố nhiệt độ là chủ yếu. Khi nhiệt độ nước nuôi trên 29 độ C thường bị bệnh này.
- Cách phòng trị: Khống chế nhiệt độ nước nuôi ổn định từ 27 – 28 độ C, lúc thay nước chú ý các yếu tố độ mặn, pH, nhiệt độ …phải cân bằng giữa nước cấp và trong bể nuôi. Khi phát hiện có dấu hiệu bệnh phải trị kịp thời, do nguyên nhân chủ yếu là vi khuẩn và môi trường nên có thể diệt khuẩn bằng iodine, sau đó cải thiện môi trường.
5.Bệnh đục cơ
- Bệnh này thường xảy ra trong giai đoạn tôm bột (PL), quan sát trong bể nuôi thấy xuất hiện một số con có màu trắng đục trên thân, điểm trắng đục xuất phát từ đuôi và lan dần ra, tôm bị bệnh bơi lội khó khăn, những con bị nặng sẽ chết. Bệnh xảy ra mang tính tự phát do các hiện tượng sốc của môi trừơng , như sự dao động của nhiệt độ, độ mặn và oxy, kết hợp với mật độ cao cũng như các thao tác trong khi nuôi không phù hợp.
- Tỷ lệ mắc bệnh thường từ 10 – 30%, sử dụng thuốc kháng sinh thường không hiệu qủa, chủ yếu là phòng ngừa, giảm tối đa các hiện tượng gây sốc ngay sau khi phát hiện bệnh, bệnh sẽ không tăng và khỏi. Trong thời gian đang tôm đang bị bênh nên trộn Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress.
6. Bệnh đen mang
- Bệnh này thường xuất hiện vào giai đoạn PL5 - PL8 trong chu kỳ phát triển của ấu trùng.
- Nguyên nhân gây bệnh: Do trong nước có hàm lượng hữu cơ cao, tảo chết, khi ấu trùng bị nhiểm bệnh, hàng ngày khi xi phông bể xuất hiện xác tôm chết nổi lên. Xem trên kính hiển vi thấy nhiều chấm đen trên các tơ mang, khi bệnh nặng tôm chết nhiều.
- Phòng bệnh: chăm sóc và quản lý môi trường tốt, quản lý tảo phát triển không bị tàn đồng loạt.
- Cách điều trị bệnh: Có thể thay nước 20 – 50%, kết hợp dùng vi sinh để xử lý.
7. Bệnh dính chân
- Bệnh thường gặp trong sản xuất giống tôm càng cũng như tôm sú. Tác nhân gây bệnh do vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria) và vi khuẩn không phải dạng sợi, một số loài tảo, nguyên sinh động vật. Khi quan sát ấu trùng tôm trên kính hiển vi thường thấy xuất hiện đầy đủ các loại này, nhưng vi khuẩn dạng sợi là chủ yếu. Chúng bám vào các sợi lông tơ, số lượng nhiều tôm bơi lội khó khăn và các lông tơ rụng dần, sau đó tổn thương các phần phụ như chân bụng, đuôi, chủy… bị nhiễm nặng tôm chết đồng loạt, nhất là các giai đoạn nhỏ.
- Cách điều trị: bệnh này phải dựa vào sự quan sát trên kính hiển vi, xác định loài nào gây bệnh chủ yếu trị trước sau mới trị bệnh tiếp theo.
Ví dụ: Gây bệnh do vi khuẩn dạng sợi là chủ yếu và có cả nguyên simh động vật (Zoothamnium).Trị bệnh do vi khuẩn dạng sợi trước, sử dụng CuSO4 với nồng độ 0,3ppm sau 24 giờ là khỏi bệnh; ngày sau đó thay nước 80%, sau 2 ngày trị tiếp bệnh do nguyên sinh động vật gây ra.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét