Đánh tên loài cần tìm vào ô bên dưới để tìm kiếm

Hiển thị các bài đăng có nhãn Cá Chẽm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cá Chẽm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Kỹ thuật nuôi vỗ cá Chẽm

Kỹ thuật nuôi vỗ cá Chẽm
 

Kỹ thuật nuôi vỗ cá chẽm by Viện NCTS | Ky thuat nuoi vo ca chem

Kỹ thuật nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ là một trong những khâu quan trọng đầu tiên trong qui trình sản xuất giống, cá bố mẹ có chất lượng tốt sẽ cho tỷ lệ sống cao và tốc độ tăng trưởng nhanh. Cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ thường có trọng lượng từ 3 - 4kg, tuổi cá từ 1,5 - 3 năm và có thể được tuyển chọn từ nguồn cá nuôi thương phẩm hoặc cá đánh bắt ngoài tự nhiên. Sau khi tuyển chọn, cá bố mẹ được vận chuyển về trại sản xuất để thuần dưỡng trước khi đưa cá vào nuôi vỗ.
1. Kỹ thuật vận chuyển cá bố mẹ 
Cá chẽm là loài cá dữ, kích thước lớn nên việc vận chuyển sống gặp nhiều khó khăn. Cá thường bị sốc, giãy giụa rất mạnh thường dẫn đến mất nhớt, xây xát ảnh hưởng đến sức khoẻ, đây là nguyên nhân dẫn tới một số bệnh cơ hội xâm nhập vào cơ thể cá. Tùy từng vị trí trại sản xuất mà chúng ta có thể chọn cách vận chuyển khác nhau như vận chuyển hở đối với nguồn cá bố mẹ gần trại sản xuất, vận chuyển bằng phương pháp gây mê đối với những trại sản xuất ở xa nguồn cung cấp cá bố mẹ, thông thường nhiệt độ khi vận chuyển nên duy trì ở mức 18-20oC, như vậy chúng ta có thể hạn chế đến mức tối đa các yếu tố gây ảnh hưởng đến sức khỏe của cá bố mẹ trong quá trình vận chuyển.

2. Thuần dưỡng cá bố mẹ 
Cá bố mẹ trước khi đưa vào nuôi vỗ cần có thời gian thuần dưỡng để cá dần dần thích nghi với điều kiện sống nhân tạo đặc biệt đối với cá có nguồn gốc ngoài tự nhiên. Cá được thuần dưỡng trong bể ximăng có dung tích từ 10–20m3, nước biển trong bể nuôi thuần dưỡng cần được điều chỉnh độ mặn tương đồng với môi trường tự nhiên, trong quá trình thuần dưỡng khí được cung cấp đầy đủ, hàng ngày nước được thay 100 - 200% bằng phương pháp cho nước chảy vào ra và thường xuyên theo dõi sức khỏe của cá. Mật độ nuôi thuần dưỡng là 1 con/m3. Hàng ngày cho cá ăn bằng các loại cá tạp có chất lượng tốt. Khi cá hồi phục sức khoẻ và thích nghi với điều kiện nuôi nhân tạo thì tắm cá bằng nước ngọt trong vòng 10 – 15 phút để phòng bệnh trước khi chuyển sang bể nuôi vỗ cá bố mẹ. Thông thường thời gian thuần dưỡng cá bố mẹ khoảng 7 - 15 ngày tùy theo từng nguồn cá đã tuyển chọn.

3. Nuôi vỗ cá bố mẹ 
Nuôi vỗ cá bố mẹ là một trong những khâu quan trọng trong quyết định sự thành công trong sản xuất giống nhân tạo.
a) Nuôi vỗ cá bố mẹ bằng lồng trên biển 
- Vị trí đặt lồng: Lồng nuôi vỗ cá bố mẹ thường được đặt ở những nơi kín gió, có dòng chảy nhẹ và liên tục, xa nguồn nước thải, mực nước thuỷ triều lên xuống ổn định và gần trại sản xuất giống. Ngoài ra còn chú ý đến vị trí thuận tiện giao thông để thuận tiện quá trình vận chuyển.

- Lồng có hình vuông, tròn thông thường sử dụng những lồng có kích thước: 3x3x3m, 4x4x4m, 5x5x5m, kích thước mắt lưới 2a = 4cm, mật độ nuôi vỗ 1 – 2 con/m3 Quản lý và chăm sóc. 

- Thức ăn: Tốt nhất là sử dụng các loại thức ăn như cá tạp, mực... còn tươi, định kỳ bổ sung vitamin và khoáng chất, hàng ngày cho ăn 1 lần vào buổi chiều. Khẩu phần cho ăn là 3-5% trọng lượng thân.

- Theo dõi hoạt động của cá hàng ngày để kịp thời xử lý khi có dấu hiệu bất thường, khi cho cá ăn phải kiểm tra đáy lồng để loại bỏ thức ăn dư thừa. Định kỳ kiểm tra lưới lồng và vệ sinh xung quanh lồng, đảm bảo nước lưu thông. Khi có gió bão cần di chuyển lồng đến nơi an toàn, kín gió.

- Phòng bệnh: Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá trong quá trình nuôi vỗ để biết được tình trạng sức khoẻ cá, định kỳ 1 tháng tắm cá bằng nước ngọt để phòng bệnh. Khi phát hiện cá có dấu hiệu bất thường phải bắt ra xử lý riêng, xác định rõ nguyên nhân gây bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời, sau đó cách ly cá bệnh cho đến khi cá hoàn toàn khoẻ mạnh.

b) Nuôi vỗ trong bể ximăng 
- Nguồn nước: Nguồn nước cung cấp vào bể cá bố mẹ được lọc qua hệ thống lọc cơ học, sinh học để loại bỏ các chất vẩn và mầm bệnh. Nước được cung cấp vào bể phải đảm bảo các thông số môi trường như: Nhiệt độ 27 – 28 độ C, độ mặn 30 - 32‰, NH3 < 0,1mg/l, NO2< 0,05mg/l , pH 7,5 - 8,2.

- Chuẩn bị bể nuôi vỗ: Bể nuôi vỗ thường có kích thước lớn, hình tròn hoặc hình vuông tuỳ theo thiết kế. Dung tích bể thường từ 100 – 200m3. Bể được vệ sinh sạch, khử trùng bằng chlorine nồng độ 40ppm sau đó rửa sạch lại bằng nước ngọt trước khi cấp nước biển sạch vào. Mật độ nuôi vỗ thông thường từ 1 - 2kg/m3 hoặc 1 con/2m3.

- Quản lý và chăm sóc: Hàng ngày cho cá ăn bằng các loại thức ăn như cá trích, cá nục, cá ngân, mực… có bổ sung vitamin và các chất khoáng. Khẩu phần cho ăn hàng ngày khoảng từ 3 - 5% trọng lượng thân. Cho ăn vào chiều muộn (16 -17h). Sau khi cho ăn 2 giờ tiến hành kiểm tra, nếu còn thức ăn thừa trong bể phải vớt ra để đảm bảo cho môi trường nuôi thường xuyên sạch, không gây ra dịch bệnh cho cả đàn cá trong bể. Hàng ngày thay từ 100 - 200% nước trong bể bằng phương pháp cho nước chảy vào ra. Định kỳ 15 ngày vệ sinh bể nuôi vỗ bằng cách chà rửa, mục đích là loại bỏ những mầm bệnh từ bên ngoài.

- Phòng bệnh và trị bệnh: Thường xuyên theo dõi tình trạng sức khoẻ của cá, khi phát hiện cá có dấu hiệu bị bệnh, thì phải cách ly để xử lý kịp thời, sau khi cá khoẻ mạnh chuyển cá lại bể nuôi vỗ. Trong khi đó phải phòng bệnh cho những con còn lại bằng cách tắm cá trong nước ngọt, thời gian tắm cá khoảng từ 10 - 15 phút.

4. Kiểm tra sự thành thục của cá 
Định kỳ 15 ngày kiểm tra sự thành thục của tuyến sinh dục bằng que thăm trứng (đường kính 0,8 – 1,2mm) đối với cá cái và vuốt tinh dịch đối với cá đực. Khi cá đạt tiêu chuẩn về sự thành thục thì tiến hành kích thích sinh sản.

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Đặc điểm sinh học cá Chẽm Mõm Nhọn

Đặc điểm sinh học cá Chẽm Mõm Nhọn 


Đặc điểm sinh học cá chẽm mõm nhọn by TSTB | Dac diem sinh hoc ca chem mom nhon

1. Phân loại 
- Ngành: Chordata

- Lớp: Actinopterygii

- Bộ: Perciformes

- Họ: Latidae

- Giống: Psammoperca

- Loài: Psammoperca waigiensis Cuvier, 1828

- Tên gọi:
+ Tên tiếng Anh: Waigieu seaperch
+ Tên tiếng Việt: Cá chẽm mõm nhọn
+ Tên khác: Cá vược mõm nhọn.

2. Đặc điểm sinh học, phân bố 
a) Đặc điểm sinh học 
- Thân hình thoi, dẹt bên. Chiều dài thân bằng 2,7 – 3,6 lần chiều cao. Đầu to, mõm nhọn, chiều dài hàm trên kéo dài đến ngang giữa mắt. Hai vây lưng liền nhau, giữa lõm. Vây đuôi tròn lồi. Thân màu nâu xám, bụng trắng bạc. Chiều dài lớn nhất 47cm, thông thường 19 – 25cm

- Tập tính sống: Cá chẽm mõm nhọn thường sống trong các hang đá hoặc vùng đáy có cỏ biển. Cũng thích nghi nơi đáy là các rạn san hô. Ban ngày thường ẩn mình trong các bụi rong hoặc hang đá, có phân bố cả vùng nước lợ.

- Sinh trưởng nhanh, thức ăn là các loài cá, giáp xác…

b) Phân bố 
- Ấn Độ – Tây Thái Bình Dương, Ấn Độ, Srilanca, Australia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.

- Ở Việt Nam cá có phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan nhưng ít.

3. Hiện trạng nuôi 
- Đã được nuôi ở Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và ở Việt Nam mới được nuôi ở Miền Nam. Các kiểu nuôi chính: trong các ao đất và lồng lưới. 

- Ở Việt Nam đã nghiên cứu sản xuất giống cá này.

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Kỹ thuật ương cá Chẽm ao đất

Kỹ thuật ương cá Chẽm ao đất


Kỹ thuật ương cá chẽm ao đất by TSTB | Ky thuat uong ca chem ao dat

Cá chẽm là loài cá dữ, phàm ăn và thích ăn mồi động vật. Kết quả phân tích thưc ăn trong dạ dày của cá từ các mẫu thu ngoài tự nhiên cho thấy, cá dài 20 cm trong dạ dày 100% thức ăn là mồi động vật. Trong thực tế khi ương cá chẽm từ cá hương lên cá giống trong diện tích hẹp, mật độ dày, chế độ chăm sóc không chu đáo, giữa chúng có sự cạnh tranh thức ăn, cạnh tranh không gian sống, cá lớn không đều và chúng tấn công lẫn nhau để ăn thịt làm cho tỷ lệ sống sau khi ương nuôi rất thấp. Ương cá chẽm ao đất từ hương lên giống đến nay được xem là mô hình ương đạt hiệu quả nhất so với việc ương cá ở lồng ngoài biển hay trên bể xi măng.

I. Ương trong ao đất
1. Chuẩn bị ao ương
- Ao ương phải đảm bảo các điều kiện sau: Ao được xây dưng ở nơi không bị phèn, đất có thành phần sét đ6ỳ đủ để giữ được nước, biên độ thuỷ triều vừa phải (khoảng 2 - 3 m) để tháo cạn được nước khi thuỷ triều rút và cấp đủ nước cho ao khi thuỷ triều lên.

- Nước ao ương sạch bảo đảm các thông số cho phép như sau:
+ pH: 7,5 - 8,5
+ Oxy hoà tan: 4 - 9mg/l
+ Nồng độ muối: 10 - 30 phần ngàn
+ Nhiệt độ: 26 - 30 độ C
+ NH3: < 1mg/l
+ H2S: < 0,3mg/l
+ Độ đục của nước: < 10mg/l

- Diện tích ao ương từ 500 – 2.000 m2 dễ quản lý chăm sóc; mực nước trong ao từ 0,8 - 1m, đáy ao bằng phẳng. Mỗi ao có 2 cống có lưới mắt mau (mắt lưới 1mm) để tránh sinh vật hại cá xâm nhập vào ao theo nước và ngăn không cho cá theo nước ra ngoài.

- Trước khi thả cá, ao được cải tạo diệt tạp, tháo cạn nước ao cũ , phơi đáy ao cho se lớp bùn mặt hoặc phơi nứt chân chim để đất xốp, loại được các khí độc, oxy hoá các chất khoáng. Ao mới đào phải thay nước nhiều lần để môi trường ổn định. Bón lót gây màu ao bằng phân gà với lượng 5 kg/m2 ao. Dẫn nước vào ao và thả artemi để gây thức ăn ban đầu cho cá với lượng 10g trứng khô/100m2 ao. Sau 10 - 15 ngày artemi đạt giai đoạn trưởng thành, tiến hành thả cá vào nước.

2. Chọn cá giống và mật độ ương
- Cần chọn cá hương đồng cỡ, thả đủ mật độ trong thời gian ngắn để hạn chế sự cạnh tranh thức ăn và không gian sống của chúng.


- Cần phân cỡ cá trước khi thả ương: Dùng chậu nhựa hoặc khai nhựa, đục nhiều lỗ như mắt rổ ở đáy và xung quanh thành. Lỗ cỡ kích thước đồng đều theo quy cỡ đã chọn. Để chậu (khay) trên mặt bể co chứa nước sạch, cho cá vào rổ, khay. Cá nhỏ lọt xuống bể, chọn những cá khoẻ, không bị dị hình đem thả nuôi. Tuỳ theo cỡ cá, thả mật độ khác nhau. Cỡ cá 2 - 2,5cm thả mật độ 20 - 30 con/m2 ao; cỡ cá lớn thả thưa hơn.

3. Nhu cầu dinh dưỡng
- Ngoài thức ăn và artemi cung cấp ban đầu, trong quá trình ương sử dụng cá tạp xay nhuyễn làm thức ăn cho cá.

- Cách cho ăn: Tuần lễ thứ nhất, lượng thức ăn hàng ngày bằng 100% khối lượng cá nuôi. Mỗi ngày tăng 1 - 2 % lượng thức ăn cho cá (cần theo dõi khả năng sử dụng thức ăn để qurn lý tốt lượng thức ăn cung cấp cho cá).

II. Các hình thức ương khác
1. Ương trên bể xi măng
Ương cá trên bể xi măng hiệu quả thấp vì chất thải của cá, thức ăn thừa sẽ tích tụ trong bể nhanh làm cho môi trường nước dễ bị ô nhiễm. Cá hoạt động trong bể thường cọ xát vào thành bể, thân bị xây sát dẫn đến cá bị nhiễm bệnh vi khuẩn chết. Ngoài ra, ương trong bể thể tích hẹp cá dễ tấn công lẩn nhau để ăn thịt.

2. Ương cá trong lồng lưới
Tuy ương cá trong lồng lưới có ưu điểm lợi dụng được điều kiện môi trường nước chảy tự nhiên, cá sống khoẻ, lớn nhanh, song lồng lưới thường bị các sinh vật biển bám làm cản trở dòng nước lưu thông cá thường thiếu oxy, lồng mau hư hỏng và trong thể tích hẹp cá dễ tấn công lẫn nhau để ăn thịt.

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

Nhu cầu protein của cá Chẽm

Nhu cầu protein của cá Chẽm


Nhu cầu protein của cá chẽm by C.ty UVVN | Nhu cau protein cua ca chem

Cá chẽm (Lates calcarifer) hay còn gọi là cá vược, là loài cáăn thịt, được nuôi trong lồng và các ao đầm nước lợ, nước ngọt cũng như nước mặn.Việc đưa cá chẽm vào nuôi rộng rãi là việc làm cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng trên một đơn vị diện tích mặt nước, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu thị trường và đa dạng hoá đối tượng nuôi trồng thủy sản.


- Trong môi trường sống tự nhiên, thức ăn của cá chẽm kích cỡ từ 15 cm trở lên hoàn toàn là động vật như tôm, cua, ghẹ, cá nhỏ. Do vậy, trong nuôi nhân tạo cần phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu protein cho sinh trưởng và phát triển của chúng.

- Cho đến nay ở nước ta, nhu cầu protein của cá chẽm vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Trên thế giới đã có một vài nghiên cứu về nhu cầu protein của cá chẽm được công bố trên các tạp chí. Sakaraset al.(1988) ước tính hàm lượng protein thô khẩu phần cho cá chẽmchưa trưởng thành là 50%. Cácnghiên cứu sau đó cho thấy rằng tỷ lệtăng trưởng cao nhất đạt được với mức protein 45% (Sakaras etal.,1989). Mức protein tối ưu cho sự sinh trưởng và phát triểncủa cá chẽm đã được ghi nhận trong khoảng 40 - 45% (Wong và Cho, 1989).

- Về nhu cầu các acid amin thiết yếu của cá chẽm: Colosoet al. (1993) công bố nhu cầutryptophan của các chẽmgiai đoạn trưởng thành là 0,5% protein khẩu phần. Yêu cầu đối với methionine, lysine và arginine có lần lượt là 2,24; 4,5 - 5,2 và 3,8% khẩu phần protein (Millamena năm 1994, Rimmer et al. 1998). Ngoài ra, Boonyaratpalin et al. (1990) đã chỉ ra sự tập trung quá mức của tyrosine trong khẩu phần ăn củacá chẽm cóthể dẫn đến những vấn đề về thận. Như vậy, cần phải có nhiều nghiên cứu hơn để hiểu được nhu cầu các amino acid và mối tương quan của chúng như thế nào là điều rất cần thiết cho sự phát triển tối ưu của cá chẽm.

- Nghiên cứu của Catacutan và Coloso (1995) cho thấy cá chẽmcó thể phát triển thích ứng với khẩu phần ăn chứa 42,5% protein thô (CP) với tỷ lệ protein thô/năng lượngtiêu hóa (DE) khoảng30,7 mg CP/kJDE, tương ứng với năng lượngtổng số 25,2mg CP/kJGEhoặc 27,1 mgDP/kJDE. Williams và Barlow (1999) chứng minh rằng với khẩu phần ăn 42% DP và 15,5 kJDE sẽ cho hệ số chuyển hóathức ăn (FCR) và nguồn dự trữ nitơ tối ưu nhất. Hai ông đề nghị công thức tối ưu cho sự sinh trưởng cá chẽm theo DP là 26,7 mg/kJDEhoặc24,5 mg/kJGE. Những kết quả này phù hợp với các giá trị của CP lần lượt là25,8 mg/kJGE và 25,2 mg/kJGEtheo Tubongbanua (1987) và Catacutan và Coloso (1995). Mộtnghiên cứu gần đây của Williams etal, (1999) cho thấy mức protein phù hợp là 55% CP và 20 kJ DE/gsẽ kích thích sự tăng trưởng tiềm năng của cá chẽmgiai đoạn trưởng thành. Những kết quả này chỉ ra rằng khẩu phần ăn với mức protein và năng lượng tương đối cao có thể góp phần nâng cao tỷ lệ sinh trưởng của cá chẽmso với việc áp dụng khẩu phần ăn chuẩn với 45% CP và 15,5 kJ DE/g.

- Giống với các loài cá ăn thịt khác, cá chẽm có khả năng tiêu hóa tốt các thành phần thức ăn có nguồn gốc trên cạn (Hajen etal.,1993; Gomes etal.,1995; Gaylord và Gatin, 1996). Pongmaneerat và Boonyaratpalin (1995) nghiên cứu và thấy rằng hỗn hợp đậu nành và ngô với tỷ lệ 5:3 có thể thay thế 25% protein trong khẩu phần ăn của cá chẽm Châu Á trưởng thành mà không có bấtcứ ảnh hưởng xấu nào đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của cá chẽm. Tương tự với nghiên cứu đó, Boonyaratpalin et al. (1998) đã chỉ ra rằng có gần 37% lượng protein từ nguồn cá của khẩu phần ăn dành cho cá chẽm có thể được thay thế bởi dung môi chiết xuất đậu nành mà không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động bình thường. Nghiên cứu của Williams et al. (1999) cũng chỉ ra rằng nguồn thức ăn bột thịt có thể thay thế cho bột cá trong khẩu phần ăn cá chẽm mà không gây ra bất kỳ tác hại về sự tăng trưởng nào cũng như hiệu quả sử dụng thức ăn hay chất lượng bữa ăn của chúng. Williams vàBarlow (1999) đã chứng minhmột hỗn hợp gồm bột thịt và bột máu khô với tỷ lệ 5.5:1 có thể được sử dụng nhằm thay thế bột cá trong quá trình sinh trưởng phát triển của cá chẽm mà không làm thay đổi sự tăng trưởng, hệ số FCR hay tỷ lệ sống của chúng. Có thể áp dụng công thức thức ăn như sau:
+ Sử dụng thức ăn hỗn hợp dạng viên nổi hay viên khô ép đùn có khả năng chìm chậm chứa 50% protein và 20% lipid. Nên cho ăn 2 lần/ngày với cá có trọng lượng 20 – 100g và 1 lần/ngày với cá đạt trọng lượng lớn hơn 100g.
+ Các loại cá tạp tươi hay đông lạnh: cho ăn với hàm lượng 2% trọng lượng cơ thể, 3 lần/tuần. Bổ sung thường xuyên Vitamin và dầu cá trước mỗi lần cho cá ăn.

- Cần có những nghiên cứu cụ thể đế xác định nhu cầu protein của cá chẽm nuôi với các hình thức khác nhau ở các môi trường khác nhau trong điều kiện Việt Nam để khuyến cáo cho người nuôi đạt hiệu quả cao.

Bài viết đã được mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ: TS. Ngô hữu Toàn, KTS, ĐH Nông Lâm Huế.

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

Kỹ thuật nuôi cá Chẽm trong lồng

Kỹ thuật nuôi cá Chẽm trong lồng


1. Vị trí đặt lồng
- Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của nghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính: nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng; nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể...; và nhóm các yếu tố về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế - xã hội, luật lệ...

- Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần thiết có:
+ Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2 - 3m. Ít sóng to, gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1 m/giây) nếu không sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.
+ Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp từ 0,2 - 0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.
+ Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4 - 6 mg/lít, nhiệt độ 25 - 30 độ C, độ mặn từ 27 - 33 ‰. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi công nghiệp, nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.

2. Thiết kế và xây dựng lồng
- Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6x6x3 m và được thiết kế thành 4 ô để làm thành 4 lồng riêng biệt như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3x3x3 m. Như thế sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từng lồng, đồng thời với một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay lồng khi xử lý bệnh cá hay xử lý rong to bẩn đóng trên lồng.

- Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,... để làm lồng như nhiều nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung trên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15 cm. Khung đáy lồng dùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ. Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ cỡ cá 1 - 2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá 5 - 10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá >25 cm dùng mắc lưới 4 cm.

- Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gổ của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy hay không. Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi.

- Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.

3. Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng
- Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6 - 8 giờ) hoặc buổi tối (8 - 10 giờ) khi nhiệt độ thấp.

- Mật độ thả cá thường từ 40 - 50 con/m3. Sau 2 - 3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 150 - 200g, lúc này giảm mật độ còn 10 - 20 con/m3. Nên dành một số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông qua việc chuyển đổi lồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.

- Cần phải thường xuyên theo dõi lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể bị phá hại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá,... Nếu lồng bị hư hỏng phải lập tức sửa chữa hoặc thay mới.

- Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng phù sa. Vấn đề này không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho các vi sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thễ bám vào,... những vật này có thể bám kín lưới làm giảm sự trao đổi nước có thể gây "sốc" cho cá do oxy hòa tan thấp đồng thời tích tụ những chất cặn bã. Chính vì thế sẽ ảnh hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.

- Cho đến việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là phưong pháp hiệu quả vá rẻ nhất. Ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng lồng lưới luân phiên nhau.

4. Thức ăn và cách cho ăn
- Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đương phải đương đầu. Hiên tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cá chẽm. Cá tạp được băm nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ), buổi chiều (5 giờ) với tỷ lệ 10% trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng chỉ cho ăn một lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá. Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước.

- Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn còn cao mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu làm thức ăn có thể là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%.

- Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩu phần ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loại thức ăn này vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn như sau:


Kỹ thuật nuôi cá Chẽm trong lồng, Nguồn: Khuyến nông Việt Nam.

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Kỹ thuật nuôi cá Chẽm thương phẩm

Kỹ thuật nuôi cá Chẻm Thương Phẩm



Năm 2008, Phòng Kinh tế Hội An đã xây dựng mô hình nuôi thương phẩm cá chẻm đầu tiên tại hộ ông Phùng Ngọc Hải ở phường Cẩm Châu. Đến nay, kết quả rất khả quan của mô hình này đã mở ra một hướng mới cho nghề nuôi thủy sản nước lợ...

- Kỹ sư Võ Quảng Lâm (Phòng Kinh tế Hội An) cho biết: Để đưa mô hình vào sản xuất, từ đầu năm 2008, đơn vị đã đưa chủ hộ thực hiện mô hình tham quan học tập kinh nghiệm nuôi cá chẻm tại Cam Ranh và Trường đại học Nha Trang (Khánh Hòa). Sau đó, cá chẻm được đưa về nuôi thử nghiệm trên diện tích 1,5 ha với số lượng 25.000 con, cỡ giống từ 1 - 1,5 cm. Nguồn giống do Trường đại học Nha Trang cung cấp. Sau 7 tháng nuôi, mô hình đã đạt một số kết quả bước đầu với kích cỡ cá thu hoạch bình quân 1kg/con, sản lượng đạt 6 tấn. Hộ nuôi thử nghiệm Phùng Ngọc Hải đã thu lãi ròng hơn 60 triệu đồng.

- Theo ông Phùng Ngọc Hải, ao nuôi cá phải có độ sâu từ 1,2 - 1,5 m, cấp tháo nước thuận lợi. Đáy ao là đất thịt pha cát, bờ ao vững chắc không bị rò rỉ, cao hơn mức nước trong ao 30 - 40 cm. Nguồn nước cung cấp cho ao nuôi tương đối trong sạch. Trước khi thả cá phải tiến hành xả nước, vét bùn đáy ao. Dùng vôi bột với liều lượng từ 7 - 10 kg/100 m2 rải đều khắp đáy ao và phơi đáy từ 2 - 3 ngày. Sau đó diệt tạp bằng saponin với liều lượng 1kg/100m2. Trong quá trình nuôi, diễn biến môi trường ao nuôi cơ bản thuận lợi cho cá sinh trưởng và phát triển. Độ pH dao động từ 7,5 - 8,5, độ mặn từ 10 - 25 phần nghìn, nhiệt độ dao động từ 26 - 32 độ C. Trong những ngày nhiệt độ cao trên 30 độ C, cá có hiện tượng bỏ ăn, tuy nhiên không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.

- Cá chẻm là loài cá dữ nên thường tấn công lẫn nhau, nhất là giai đoạn cá còn nhỏ, làm cho tỉ lệ sống giảm. Vì vậy, khi cá ở giai đoạn cá còn nhỏ phải ươm cá trong những chiếc giai có kích thước 4m x 2m x 1,2m và 1 tuần phải phân đàn cũng như cung cấp đầy đủ thức ăn. Mật độ ươm từ 40 - 50 con/m2, mật độ thả từ 1 - 2 con/m2. Tuần lễ đầu, nên cho ăn với liều lượng 100% trọng lượng cá, tuần thứ hai giảm dần còn 60%, đến tuần thứ 3 bằng 40%. Sau 4 tuần ươm, cá giống đạt kích cỡ từ 5 - 10 cm thì thả ra ao để nuôi thương phẩm. Việc đưa cá ra ao nuôi cần chú ý thả cá cùng kích cỡ để tránh hiện tượng ăn lẫn nhau hay cạnh tranh thức ăn.

- Ở giai đoạn cá thịt, thức ăn của cá chẻm là cá tươi băm nhỏ (giai đoạn đầu) hoặc nguyên con (ở giai đoạn lớn). Hai tháng đầu, mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều tối, lượng thức ăn bằng 8 - 10% tổng trọng lượng cá trong ao. Từ tháng thứ 3 trở đi cho ăn 1 lần vào chiều tối, lượng thức ăn bằng 5 - 6% tổng trọng lượng cá trong ao. Cũng theo ông Phùng Ngọc Hải, khi cho cá ăn cần tạo phản xạ bằng tiếng động để tập trung cá thành đàn, đúng thời điểm và vị trí cho ăn. Cá chẻm không bao giờ ăn thức ăn chìm dưới đáy ao nên cần thả thức ăn từ từ đến khi cá no thì ngừng. Hằng ngày kiểm tra các yếu tố môi trường ao nuôi, đồng thời thay nước từ 20 - 50 % lượng nước trong ao. Đặc biệt lưu ý, việc thay nước thường xuyên sẽ giúp cá ăn khỏe, sinh trưởng nhanh.

- Thực tế cho thấy, cá chẻm là đối tượng nuôi khá thích hợp ở vùng nước mặn lợ, cá có tốc độ sinh trưởng và phát triển nhanh. Với cỡ giống từ 1 - 1,5cm sau 7 tháng có thể đạt 0,9 - 1kg/con. Cá nuôi ít bị mắc bệnh, chất lượng cá thơm ngon được thị trường ưa chuộng. Việc nuôi cá chẻm thành công cũng đã góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi, tạo tiền đề để chuyển đổi đối tượng nuôi trên một số diện tích nuôi tôm kém hiệu quả của thành phố. Do vậy, để nâng cao hiệu quả, thời gian đến, ngành nông nghiệp Hội An tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm mô hình nuôi cá chẻm thương phẩm bằng thức ăn công nghiệp nhằm giảm thiểu ô nhiễm và có biện pháp liên kết với các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu để bao tiêu sản phẩm cho người nuôi.

- Cá chẻm có tên khoa học là Lates calcarifer (Bloch 1790), tên tiếng Anh là seabass, thuộc bộ cá vược. Cá có thể sinh trưởng và phát triển trong môi trường nước ngọt và nước lợ. Từ khi Trường đại học Thủy sản Nha Trang (nay là Đại học Nha Trang) nghiên cứu thành công sinh sản nhân tạo cá chẻm, việc nuôi thương phẩm cá chẻm đã được nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh tiến hành và được xem như là một đối tượng thay thế con tôm sú trên đầm nước lợ.

Kỹ thuật nuôi cá Chẻm Thương Phẩm, Nguồn: Báo Quảng Nam.