Pages

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011

Kỹ thuật nuôi vỗ cá tra

Kỹ thuật nuôi vỗ cá tra

tra và ba sa là hai loài cá da trơn thuộc họ cá tra (Pangasidae), có giá trị kinh tế, phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng Nam Bộ nước ta và một số nước Đông Nam á và là những loài nuôi quan trọng của khu vực này.

tra phân bố ở lưu vực sông Mêkông, có mặt ở các nước Lào, Việt vođược ở vùng nước hơi lợ (độ mặn 1‰), chịu đựng được nước phèn với pH ≥ 4. Cá tra có tính ăn tạp, thiên về ăn thức ăn động vật và dễ chuyển đổi loại thức ăn. Nuôi trong ao, tốc độ tăng trưởng đạt 1- 1,5 kg/con/năm.


tra đực thành thục ở tuổi thứ 2 và cá cái ở tuổi thứ 3. Trong tự nhiên, mùa vụ thành thục của cá bắt đầu từ tháng 5- 6 (dương lịch). Trong sinh sản nhân tạo, ta có thể nuôi vỗ cho cá thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn trong tự nhiên. Hệ số thành thục của cá đực 1-3%, ở cá cái có thể đạt tới 20%.

Cá ba sa cũng sống ở nước ngọt, phân bố ở Thái Lan, Indonêxia, Campuchia và Việt Nam. Cá ba sa khác với cá tra là không có cơ quan hô hấp phụ và ngưỡng oxy cao hơn cá tra, nên chịu đựng kém ở môi trường nước tù bẩn, nơi hàm lượng oxy hòa tan thấp. Cá có tính ăn tạp, thiên về thức ăn động vật, nhưng không háu ăn và ít tranh mồi ăn hơn cá tra. Cá thành thục ở 3 - 4tuổi. Nuôi trong tự nhiên, cá cũng di cư sinh sản, hệ số thành thục của cá nuôi vỗ trong ao và bè đạt 4,03- 6,2%, sức sinh sản đạt tới 67.000 trứng ( đối với cá có trọng lượng 7 kg)

Đồng bằng Nam Bộ có truyền thống nuôi cá tra và cá ba sa, phổ biến trong ao và bè. Hiện nay, phương thức nuôi thâm canh cho năng suất rất cao, nuôi trong ao đạt tới 300 tấn/ ha, trong đăng quầng tới 500 tấn/ha, trong bè đạt 100- 150kg/ m3 bè nuôi. Cá tra và ba sa đã trở thành đối tượng xuất khẩu quan trọng thời gian qua.

Những năm trước đây, ở nước ta nguồn cá tra và cá ba sa giống chủ yếu được vớt tự nhiên trên sông Tiền. Hiện nay, chúng ta đã hoàn toàn chủ động trong việc sinh sản nhân tạo và sản xuất giống hai loài cá này và cung cấp đủ giống cho người nuôi.

I- Điều kiện nuôi vỗ cá bố mẹ

1 - Nuôi vỗ cá bố mẹ trong ao

Ao nuôi vỗ cá tra có diện tích ít nhất 500 m2, còn ao nuôi vỗ cá ba sa bố mẹ nên có diện tích 1.000 m2 trở lên, độ sâu mức nước từ 1,5 -3 m. Nhiệt độ nước ao thích hợp từ 26- 300C, pH thích hợp từ 7- 8, hàm lượng oxy hòa tan từ 2mg/l trở lên.

Nhìn chung ao càng rộng, thoáng càng tốt. Ao rộng sẽ giữ được ổn định các yếu tố môi trường, dễ dàng tạo sự đối lưu giữa các tầng nước, điều hòa lượng khí ôxy hòa tan trong nước.

Ao phải gần nguồn nước cấp, nước sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp, không nhiễm phèn, mặn hoặc chứa các kim loại nặng.

Bờ ao phải chắc chắn, không rò rỉ, đỉnh bờ phải cao hơn mực nước cao nhất trong ao là 0,5m. Ao phải có cống cấp và thoát nước. Đáy ao bằng phẳng và hơi nghiêng về phía cống thoát. Nên giữ mặt ao thoáng đãng, không để tán cây lớn che khuất mặt ao.

Ao nên ở vị trí thuận lợi về giao thông để thuận tiện đi lại và vận chuyển vật tư, sản phẩm. Phải có điện ổn định để phục vụ cho hoạt động sản xuất.

2- Nuôi vỗ cá bố mẹ trong bè

tra và ba sa bố mẹ cũng được nuôi vỗ trong bè, thực tế cho thấy, nuôi vỗ cá bố mẹ trong bè thì tỷ lệ thành thục cũng như chất lượng sản phẩm sinh dục của cá bố mẹ đều rất tốt.

Bè có dạng khối hình hộp chữ nhật, 4 mặt xung quanh (gồm 2 bên hông bè, 2 đầu bè trước và sau), đáy bè và mặt (sàn) bè. Sàn bè đóng ván và chừa 2- 3 cửa có thể nâng hạ được để cho cá ăn hoặc kiểm tra cá. Trên sàn thường làm nhà để ở, sinh hoạt và nhà kho. Cỡ bè phổ biến là 6 x 4m, sâu 3m hoặc 8m x 5m, sâu 3m, hoặc có thay đổi chút ít kích thước chiều ngang và chiều dọc tùy yêu cầu của từng chủ bè. Xung quanh bè, phần ngập nước đóng ván kín có chừa khoảng 1/3 diện tích để lắp lưới cho nước lưu thông qua bè. Phao có tác dụng nâng nổi bè và giữ cho mực nước trong bè luôn ổn định. Phao có thể làm bằng thùng phuy, thùng nhựa, tre, ống PVC. Bè được cố định bằng neo ở 4 góc, dây neo buộc vào trụ neo ở đáy hoặc bằng mỏ neo. (Kỹ thuật nuôi vỗ cá tra)

Bè truyền thống được đóng bằng gỗ chịu nước như sao, cà chích, vên vên, sến... Hiện nay, có một số nơi đóng bè bằng composite hoặc khung sắt ghép lưới inox. Bè được đặt nơi không ảnh hưởng đến giao thông trên sông, không bị bồi lắng, không có dòng xoáy ngầm, có dòng nước chảy thẳng, tốc độ nước tương đối ổn định. Nguồn nước sạch, không bị ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, mặn, không bị ô nhiễm từ các nguồn nước thải sinh hoạt và công nghiệp, xa bến phà, xa nơi có xăng dầu, nơi nước đổ ra từ các vùng nông nghiệp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

3- Công tác chuẩn bị ao, bè nuôi vỗ cá bố mẹ

Trước khi thả cá bố mẹ để nuôi vỗ nhất thiết phải cải tạo và vệ sinh lại ao. Nếu là ao cũ thì tát cạn, bắt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, chỉ để một lớp bùn mỏng 20 cm. Dọn sạch cỏ mái và bờ ao, lấp hết hang hốc cua, rắn, ếch, chuột… Dùng vôi bột rải đều đáy và mặt bờ với liều lượng 7- 10 kg/100m2. Sau đó phơi nắng đáy ao 1- 2 ngày và cho nước vào ao qua lưới chắn lọc đến khi mực nước cao đạt yêu cầu. Ao mới đào cũng cần phải xem xét đáy ao, nếu bị phèn (nhất là phèn sắt màu vàng đỏ) phải tháo bỏ và thay nước vài lần trước khi cấp nước mới. Rải vôi bột đáy và mái bờ ao với lượng vôi 10-15kg/100m2. Trước khi thả cá, phải kiểm tra lại độ pH, khi đạt trung tính thì mới thả cá.

Bè nuôi vỗ cá bố mẹ phải được dọn vệ sinh, tẩy trùng bằng formol với nồng độ 30- 50 ppm (ppm = mg/lít). Phải kiểm tra và tu sửa hoàn chỉnh các chi tiết bè, thay các phần ván, lưới chắn bị mục…

II- Chế độ nuôi vỗ cá bố mẹ

1. Tuyển chọn cá bố mẹ

Chọn lựa cá bố mẹ khỏe mạnh, đều cỡ, không bị dị hình, dị tật, thể trọng 3 - 4 kg, tuổi cá từ 3 năm trở lên. Mật độ nuôi vỗ cá bố mẹ trong ao và bè theo bảng sau

Bảng 1 - Mật độ cá bố mẹ thả nuôi vỗ



Để dễ dàng phân biệt các cá thể trong đàn, nên đánh dấu thứ tự cá bố mẹ, vị trí đánh dấu thông dụng nhất là trên da đầu của cá. Dùng que có đầu nhọn gạch bằng số La mã cho cá cái và số ả Rập cho cá đực. Có thể cắt luôn vây mỡ của cá đực khi cá đã thành thục, chỉ cần nhìn vây mỡ bị cắt là nhận biết ngay cá đực.

2. Mùa vụ nuôi vỗ

Trước khi đưa vào nuôi vỗ, đàn cá bố mẹ phải được kiểm kê, đánh giá và lựa chọn, tính toán số lượng cá nuôi vỗ cho phù hợp với điều kiện của từng cơ sở.

Các tỉnh thuộc vùng Nam Bộ do có khí hậu nóng quanh năm, mùa vụ nuôi vỗ, có thể bắt đầu từ tháng 10- 11. Các tỉnh từ Đà Nẵng đến Bình Thuận, thời gian bắt đầu nuôi chậm hơn một tháng. Các tỉnh miền Bắc phải nuôi vỗ muộn hơn, từ tháng 3 trở đi, khi thời tiết bắt đầu ấm nóng.

Mùa vụ thành thục của cá tra bố mẹ ở các tỉnh Nam Bộ bắt đầu từ tháng 2- 3 và kéo dài tới tháng 9,, ở các tỉnh miền Trung từ tháng 4 - 9.

Đối với cá ba sa, hiện nay chủ yếu nuôi vỗ sinh sản tập trung ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Mùa vụ nuôi vỗ cũng bắt đầu từ tháng 10-11. Mùa vụ thành thục của cá từ tháng 4- 5 và cũng kéo dài tới tháng 8- 9.

3. Thức ăn và chế độ cho ăn

- Các loại thức ăn

Nhu cầu hàm lượng dinh dưỡng cho cá tra và ba sa bố mẹ tương đối cao, hàm lượng đạm trong thức ăn của cá tra phải đảm bảo 28- 30% và của cá ba sa 38- 40%. Ngoài ra, phải cân đối hàm lượng đường, mỡ, vitamin, chất khoáng, hàm lượng mỡ trong thức ăn không thấp hơn 10%. Hiện nay, đang sử dụng các loại thức ăn chính là thức ăn hỗn hợp tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp.

Thức ăn hỗn hợp tự chế biến cho cá bố mẹ gồm các thành phần chính là cám gạo, tấm trộn với bột cá lạt. Trong đó tỷ lệ bột cá chiếm 50% ( đối với cá tra) và 60-70% (đối với cá ba sa), còn lại là cám và tấm. Ngoài ra, cần phải bổ sung các vitamin như C, E và premix khoáng, giúp cá tăng sức đề kháng và phát dục tốt. Nguyên liệu phải đảm bảo sạch, không bị ươn thối, không bị mốc hoặc quá hạn sử dụng. Tuyệt đối không trộn vào thức ăn chế biến chất kháng sinh bị cấm sử dụng.

Các nguyên liệu được nghiền nát, trộn đều và nấu chín. Thức ăn sau khi nấu chín, để nguội có thể ép viên hoặc vo thành nắm nhỏ rồi rải cho cá ăn.

Bảng 2 - Thành phần nguyên liệu thức ăn tự chế biến

Thức ăn viên công nghiệp dùng cho cá tra bố mẹ có hàm lượng đạm 28- 30% và thức ăn cho cá ba sa có hàm lượng đạm 38- 40%. Có thể sử dụng thức ăn viên nổi để cá dễ dàng sử dụng. Thức ăn viên phải đảm bảo không chứa các thuốc kháng sinh bị cấm sử dụng.

- Cho cá ăn

Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần, 7- 8 giờ và 16- 17 giờ. Khẩu phần thức ăn hỗn hợp tự chế biến từ 5- 8% thể trọng cá, thức ăn viên công nghiệp 2- 3% thể trọng. Thức ăn cho vào sàng (hoặc nia), thả xuống nước cách đáy ao 25- 30cm và có nhiều sàng ăn để cá được ăn đều. Đối với cá nuôi trong bè thì phải rải thức ăn từ từ để tất cả cá đều được ăn.

Hàng ngày theo dõi mức ăn của cá để điều chỉnh cho phù hợp. Cá ăn nhiều khi bắt đầu đưa vào nuôi vỗ nên khẩu phần ăn cao hơn những giai đoạn khác. Khi cá bắt đầu thành thục và chuẩn bị đẻ trứng thì ăn kém đi, nên giảm khẩu phần ăn. Nhiệt độ nước trong ao quá cao cũng làm cho cá ăn ít hoặc bỏ ăn. Cá nuôi vỗ trong bè ở những vùng ảnh hưởng thủy triều nên cho ăn vào lúc thủy triều lên hoặc vào lúc nước chảy mạnh để cá khoẻ sau khi ăn no.

4. Quản lý và phòng trị bệnh cá bố mẹ nuôi vỗ

Ao nuôi vỗ cá bố mẹ phải thường xuyên thay nước, ít nhất mỗi tuần một lần, mỗi lần 20% thể tích nước trong ao. Từ tháng thứ ba trở đi, thay nước mỗi ngày10- 20% thể tích để kích thích cá thành thục tốt. Khi thấy chất lượng nước ao bị xấu phải thay nhiều nước hơn lượng nước thay định kỳ để môi trường ao trở lại bình thường.

Khi thấy cá nổi đầu phải kịp thời cấp nước mới để tăng thêm lượng ôxy hoà tan, giúp cá khoẻ lại.

Đối với cá nuôi vỗ trong bè, những khi nước chảy yếu phải dùng quạt nước để tăng thêm lượng ôxy hoà tan. Thường xuyên kiểm tra neo, phao, lưới chắn để kịp thời tu chỉnh, hàng ngày chú ý gỡ bỏ rác bám quanh bè làm cản dòng nước chảy. Vào mùa lũ phải kịp thời thổi bùn lắng đọng ra khỏi đáy bè.

tra và ba sa bố mẹ nuôi vỗ với mật độ thích hợp, thức ăn đầy đủ và môi trường nước ao, bè tốt thì ít bị nhiễm bệnh. Trong một vài trường hợp do thả nuôi mật độ quá dày, thức ăn không hợp lý hoặc cho ăn quá dư thừa thức ăn làm cho môi trường ao bị ô nhiễm, dẫn đến cá có thể nhiễm một số bệnh như nhiễm khuẩn (nhiễm trùng huyết Aeromonas sp.; đốm đỏ Pseudomonas sp.; Edwardsiella; bị ký sinh trùng, giun sán (sán lá Dactylogyrus, Gyrodactylus, giun đầu móc (Acanthocephala), giun tròn (Philometra), trùng mỏ neo (Lernea).

Để phòng bệnh, phải vệ sinh ao, bè đúng cách, cho ăn thức ăn đầy đủ số lượng và chất lượng, giữ môi trường ao, bè sạch. Không lấy nước vào ao từ nguồn nước có cá bị bệnh. Khi phát hiện cá bị nhiễm bệnh, cần phải xử lý nước ao và dùng các loại thuốc kháng sinh để điều trị theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.

Kỹ thuật nuôi vỗ cá tra

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét