Kỹ thuật sản xuất giống Tôm càng xanh
1. Xây dựng trại và chuẩn bị trại giống
1.1 Chọn vị trí
Các tiêu chí thường được xem xét khi chọn lựa vị trí xây dựng trại giống bao gồm khí hậu, nguồn nước, nguồn tôm mẹ thị trường tôm giống, điện và giao thông. Thông thường, các trại được đặt ở gần biển, tuy nhiên, nhiều trại ở Thái Lan, Việt Nam vẫn đặt sâu trong nội địa và vẫn hoạt động tốt (Correria và ctv, 2000; New, 2002; Phương và ctv, 2003).
1.2 Thiết kế, xây dựng và trang bị phương tiện trại giống
- Trại giống tôm càng xanh có thể được xây dựng với qui mô gia đình hay qui mô lớn. Qui mô gia đình cần diện tích nhỏ, từ 50 - 500 m2, có thể tích bể ương ấu trùng tổng cộng khoảng 10 - 50 m3 và công suất khoảng 1 - 2 triệu tôm bột/năm. Nhà trại có thể xây dựng đơn giản bằng cây, gỗ kết hợp tấm bạt. Công ty, xí nghiệp có thể xây trại qui mô lớn với công suất đến 10 - 20 triệu tôm bột/năm, có diện tích rộng cho phòng làm việc, phòng thí nghiệm, ao, bể ương. Tuy nhiên, hầu hết các trại thành công ở Châu Á đều ở qui mô gia đình. Các trại được lợp bằng mái che tối xen với mái che trong suốt để có ánh sáng, đặc biệt là đối với trại áp dụng mô hình nước xanh. Xung quanh, nên có nhiều cửa sổ có rèm để giữ thoáng vào ban ngày đồng thời giữa ấm vào ban đêm.
- Bể chứa: Bể có thể dùng để chứa nước ngọt hoặc nước lơ. Bể đa số làm bằng xi măng. Tùy theo vị trí trại giống, qui mô trại giống, qui trình sản xuất giống, độ mặn nước chứa… mà bể chứa cần thể tích khác nhau để chủ động sản xuất quanh năm. Thông thường, trại cần có 2 bể chứa riêng, mỗi bể có thể tích bằng tổng thể tích bể ương.
- Lọc cơ học: Hệ thống lọc cơ học dùng để loại bỏ chất thải rắn trong nước. Các loại vật liệu như cát mịn, cát to, san hô, đá nhỏ, than hoạt tính... được dùng làm giá thể cho bể lọc. Hệ thống lọc gồm bể lọc có thể tích khoảng 1-2 m3 và các bể chứa nước lọc có thể tích khoảng 10-20 m3 hay hơn tùy trường hợp.
- Ngoài ra, trong trại cần có túi vải lọc có kích cỡ lỗ 1-5 μm để lọc lại nước trước khi sử dụng.
- Lọc sinh học: Lọc sinh học là hệ thống bể có chứa nhiều giá thể như san hô, đá, vật liệu có nhiều lỗ rỗng, hay ngay cả rong tảo và thực vật thủy sinh lớn để hấp thu và chuyển hóa đạm trong nước từ dạng độc sang ít độc để tái sử dụng nước cho ương nuôi tôm hay các loài thủy sản nói chung. Có nhiều dạng bể lọc sinh học được sử dụng như lọc ngầm có nước từ trên xuống, lọc ngầm nước từ dưới lên, lọc ngầm nước chảy ngang có nhiều ngăn, lọc ướt có nước phun từ trên xuống, lọc lồng xoay chứa giá thể, hay lọc có giá thể dạng dĩa xoay. Tuy nhiên, dạng lọc ngầm nước chảy ngang và có nhiều ngăn được áp dụng phổ biến nhất do tiện lợi và hiệu quả. Bể lọc chứa các giá thể có thể tích khoảng 4 - 20% thể tích ương. Trước khi ương ấu trùng, cần kích thích hệ vi khuẩn Nitrosomona và Nitrobacter phát triển trong giá thể bằng cách bón đạm Amôn (dạng NH4Cl) với nồng độ bằng 10% nồng độ có thể có trong bể ương. Kiểm tra nồng độ Amôn, nếu thấy nồng độ giảm xuống thì bón tiếp với lượng như trên và lặp lại đến khi nào toàn bộ Amôn được chuyển hóa hoàn toàn thành Nitrate trong 24 giờ thì bón tiếp với lượng gấp đôi. Quá trình bón Amon, theo dõi nồng độ và tăng gấp đôi nồng độ cần lặp lại đến khi nào bể lọc có thể có đủ lượng vi khuẩn để chuyển hóa hết lượng đạm có thể có trong bể ương trong vòng 24 giờ thì có thể đưa vào sử dụng.
- Bể nuôi tôm mẹ: Trại giống cần có bể ể xi-măng để nuôi nuôi dưỡng -tôm trứng trước khi cho nở. Các bể có thể tích dao động 5 - 50m3. Số lượng bể cũng thay đổi tùy qui mô của trại. Bể nên có lớp cát phủ mặt đáy dày 0,5 - 20cm. Bể nên có nước chảy liên tục và nên đặt nhiều giá thể cho tôm ẩn nấp.
- Bể cho tôm nở: Trại sản xuất qui mô gia đình, đơn giản, chỉ cần dùng 5 - 10 bể kính hay bể nhựa 50 - 100 lít để cho tôm nở là đủ. Mỗi bể có thể chứa 2 - 3 tôm trứng. Bể có thể bằng composite hay nhựa, màu tối để dễ dàng thu ấu trùng.
- Bể ương ấu trùng: Bể ương ấu trùng có thể đa dạng như bể tròn, hình chữa nhật hay vuông và được làm bằng compostite, nhựa cao cấp hay ximăng. Bể compostite và nhựa cao cấp tiện lợi trong quản lý, thao tác và dễ di chuyển. Bể bêtông chi phí rẻ, ổn định nhiệt hơn nhưng không cơ động. Bể ương nên có màu xám sậm hay xanh lá cây. Qui mô gia đình nên làm bể nhỏ, thể tích 0,5 - 2m3, tốt nhất làm 0,5 - 1m3 để dễ quản lý và năng suất cao.
- Bể ương tôm bột: Trại sản xuất giống cần có bể, giai lưới hay ao ương tôm bột. Bể và giai nên có thể tích 10 - 20 m3/bể. Ao có diện tích 100 - 500 m2.
- Bể ấp Artemia: Bể ấp Artemia tiện lợi nhất nên bằng composite, có đáy hình chóp và có khóa ở đáy, thể tích 20 – 100 lít. Bể đặt nơi có ánh sáng, nhưng tránh ánh nắng trực tiếp làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nở của trứng. Qui mô sản xuất gia đình, đơn giản, có thể dùng 5 - 10 keo thủy tinh 10 lít để ấp Artemia.
- Bể nuôi tảo: Các trại áp dụng mô hình nước xanh cần có bể nuôi tảo để cấp cho bể ương ấu trùng. Bể nuôi tảo nên có màu trắng, thể tích các bể khoảng 0,5 - 1m3, tiện nhất là bằng composite. Bể được đặt trong nhà dưới mái che nhựa để vừa có ánh sáng vừa hạn chế tác động lớn của môi trường ngoài.
- Hệ thống thổi khí: Tùy theo vị trí trại có điện lưới hay không, tùy vào qui mô trại mà có thể dùng máy nén khí hay máy thổi khí, vận hành bằng dầu hay điện, công suất lớn hay nhỏ. Một trại qui mô 10 - 20 m3 bể ương, đơn giản chỉ cần dùng 2 máy thổi khí điện, mỗi máy có công suất khoảng 1 HP. Nên thiết kế sao cho hai máy có thể vận hành luân phiên nhau, đảm bảo thổi khí liên tục mà vẫn bảo trì máy tốt.
- Hệ thống điện: Trại tôm giống tốt nhất nên có nguồn điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, trại cũng cần trang bị máy phát điện dự phòng.
- Hệ thống cấp nước: Tùy vị trí trại, nguồn nước sử dụng và qui mô trại mà có thể lắp đặt hệ thống bơm nước đủ công suất.
- Các dụng cụ và thiết bị khác: Ngoài các phương tiện trên, trại tôm cần được trang bị các dụng cụ như dụng cụ kiểm tra nước như máy đo độ mặn, pH kế, nhiệt kế, máy đo oxy, bộ hóa chất thử đạm, chlorine và các dụng cụ chế biến thức ăn cho tôm như sàn, khay, nồi, bếp, máy xay sinh tố, tủ lạnh, cân...
1.3 Vệ sinh bể, dụng cụ và xử lý nước ương nuôi
- Vệ sinh bể và dụng cụ: Các bể cần phải được vệ sinh kỹ trước khi vận hành. Đối với bể ximăng mới xây cần phải được xử lý kỹ bằng cách cho nước ngọt vào ngâm một ngày, sau đó xả ra và lập lại vài lần. Tiếp đến, cho nước vào đầy bể và dùng phèn chua xử lý với lượng 250 g/m3. Ngâm bể khoảng một tuần sau đó xả nước và xử lý tiếp như các bể thông thường. Trước và sau mỗi đợt sản xuất, cần phải vệ sinh trại, các dụng cụ và bể ương nuôi thật cẩn thận. Các hoá chất thường dùng để rửa bể và dụng cụ như xà phòng, hay dung dịch Chlorine 100 - 200 mg/l. Sau khi rửa, nếu có thể, nên phơi dưới ánh nắng trực tiếp một ngày. Giữa các đợt sản xuất nên tạm nghỉ 10 - 15 ngày để đảm bảo khâu vệ sinh được hoàn chỉnh.
- Pha nước và xử lý nước ương nuôi : Hai nguồn nước được sử dụng trong trại sản xuất giống tôm là nguồn nước mặn và nước ngọt. Nguồn ngước mặn có thể là nước biển hay nước mặn từ ruộng muối có độ mặn 60 – 140‰. Nước mặn sau khi để lắng, có thể cho qua lọc cơ học để có được nước trong sạch hơn. Sau đó xử lý nước bằng Chlorine với nồng độ 20g/ m3 (tính trên cơ sở Chlorine nguyên chất). Sau khi hòa chlorine vào nước, để yên một đêm, sau đó sục khí thật mạnh ít nhất 4 ngày để loại bỏ chlorine trước khi sử dụng. Trước khi sử dụng, có thể kiểm tra nồng độ chlorine còn lại trong nước. Nếu nước còn chlorine, nên dùng thiosulphate natri để trung hòa. Bổ sung thiosulphate natri bằng nồng độ chlorine còn dư trong nước. Sau đó, kiểm tra lại chlorine và xử lý như trên vài lần đến khi không còn chlorine. Đối với nước ngọt, đơn giản nhất là dùng nước máy sinh hoạt đã qua xử lý mà không cần phải xử lý thêm. Nếu dùng nước sông hay nước ao, nên xử lý nước bằng chlorine trước khi sử dụng. Nước giếng ngầm cần chú ý độ cứng. Độ cứng nước tốt nhất là 50 - 150 mg/l. Hai nguồn nước mặn và nước ngọt này được dùng để pha thành nước có độ mặn 12‰ cho ương ấu trùng.
2. Tôm bố mẹ
Các trại sản xuất nhỏ thông thường không phải nuôi tôm bố mẹ mà chủ yếu thu tôm từ tự nhiên hoặc thu mùa từ các trại nuôi tôm thịt để đơn giản và tiện lợi cũng như giảm chi phí trong sản xuất. Tuy nhiên, các trại lớn đôi khi phải chủ động nuôi để có được nguồn tôm cho sản xuất quanh năm và có chất lượng cao. Daniels và ctv (2000), Reddy (2000), New (2002), Phương và ctv (2003) thảo luận chi tiết về các kỹ thuật thu, vận chuyển, và nuôi tôm bố mẹ.
3. Ương nuôi ấu trùng
3.1 Cho tôm nở
Tôm trứng chọn cho nở phải khỏe mạnh, không bị thương tích, không có dấu hiệu bệnh (đốm đen, đốm nâu, đóng rong,...), có trọng lượng tốt nhất là 50 - 80g và trứng có màu xám đen. Nên chọn đủ số lượng tôm trứng có màu sắc tương tự nhau để cho nở đồng loạt. Có thể xử lý tôm mẹ trước khi cho nở bằng formaline 20 - 25mg/l (tính cho formol nguyên chất) trong 30 phút, sau đó thay nước. Tôm sau khi xử lý xong được cho vào bể nở. Bể nhỏ 50 lít có thể thả 2 - 3 con tôm trứng. Bể lớn thì thả nhiều hơn. Cần sục khí liên tục cho bể nở. Tốt nhất, nước bể nở nên có độ mặn khoảng 5 - 7 ‰ để tránh gây sốc cho tôm mẹ, trứng tôm cũng như ấu trùng ít bị sốc khi chuyển vào bể ương với độ mặn cao 12 ‰. Nếu chọn tôm tốt, trứng sẽ nở ngay đêm đó. Trường hợp tôm chưa nở sáng sớm để chuyển vào bể ương.
3.2 Thu và bố trí ấu trùng vào bể ương
Sau khi ấu trùng nở, thu ấu trùng vào buổi sáng. Ngừng sục khí bể, che tối bể, chừa một góc để có ánh sáng hoặc dùng đèn để tập trung ấu trùng lại một góc để hút ra bằng ống hút. Ấu trùng khỏe sẽ có tính hướng quang mạnh và tập trung nơi chiếu sáng, ấu trùng kích cỡ lớn, màu trong sáng, và hoạt động tích cực. Ấu trùng thu được nên xử lý với Formol 200 ppm trong 30 giây, sau đó, bố trí vào bể ương đã được chuẩn bị sẵn. Bể ương ấu trùng có mức nước tùy vào qui trình ương với khoảng 0,8-1m đối với hệ thống nước trong hở và nước trong kín; và khoảng 0,6-0,7 m đối với hệ thống nước xanh cải tiến để tảo phát triển. Nước ương có độ mặn 10 - 12 ‰. Sục khí liên tục và vừa phải cho bể ương với số lượng 3 - 4 đá bọt/m2 mặt bể. Đối với mô hình nước xanh cải tiến, cần bổ sung tảo (tảo Chlorella thuần hoặc nước xanh từ bể nuôi cá rô phi) trước khi bố trí ấu trùng với mật độ khoảng 0,5 - 1 triệu tế bào/ml để nước có màu xanh nhạt. Mật độ ấu trùng bố trí nên trong khoảng 50 - 60 con/lít đối với mô hình nước trong kín và nước xanh cải tiến; và 100 - 150 con/lít đối với mô hình nước trong hở. Qui trình nước trong hở cũng có thể bố trí với mật độ cao 300 - 500 ấu trùng/Lít để ương trong 10 - 15 ngày đầu (đạt giai đoạn V-VII) thì sang thưa ương với mật độ 60 - 100 ấu trùng/L (Phương và ctv, 2003).
3.3 Chăm sóc, cho ăn
- Trong ương ấu trùng tôm càng xanh, có thể cho ấu trùng ăn bằng các loại Artemia, Moina, thịt cá, thịt mực, Artemia tiền trưởng thành, trùng chỉ (giun đỏ), thức ăn chế biến, thức ăn nhân tạo... Tuy nhiên, thức ăn thường được sử dụng nhất là ấu trùng Artemia và thức ăn chế biến.
- Cho ấu trùng ăn Artemia:
+ Ngày đầu tiên không cần cho ấu trùng ăn.
+ Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5, ấu trùng được cho ăn bằng Artermia mới nở, ít nhất 2 lần mỗi ngày vào lúc sáng và chiều.
+ Mật độ cho ăn trung bình mỗi lần là 1 - 2 Artemia/ml nước.
+ Từ ngày thứ 5, mỗi ngày cho ấu trùng ăn Artemia 1 lần vào chiều tối, ban ngày cho ăn tức ăn chế biến 4 lần/ngày. Lượng Artemia cho ăn tăng dần lên 2 - 4 con/ml về giai đoạn cuối.
+ Tuy nhiên, tùy qui trình ương, nếu mật độ ương cao thì lượng Artemia cho ăn có thể tăng lên đến 5 - 10 con/ml ở giai đoạn ấu trùng IX - XI. Đối với qui trình nước xanh cải tiến, Artemia sau khi cho nở nên thu cả ấu trùng và vỏ trứng đem xử lý với formol 100 mg/l trong vài phút, sau đó cho vào các bể ương. Vỏ Artemia có vai trò quan trọng như giá thể trong bể.
- Cho ấu trùng ăn thức ăn chế biến:
+ Tùy từng trại mà có thể chế biến thức ăn với các thành phần khác nhau như trứng, sữa, thịt tôm, mực, sò huyết, gan và các hỗn hợp Vitamine, khoáng. Các công thức thức ăn chế biền được trình bày ở Bảng 1. Công thức hiện được áp dụng phổ biến ở các trại giống ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Các nguyên liệu này được trộn đều và hấp cách thủy, sau đó, ép thức ăn qua sàn với kích cỡ mắt lưới khác nhau là 300 μm, 500 μm và 700 μm để tạo hạt thức ăn có cỡ thích hợp cho từng giai đoạn của tôm (Bảng 2).
+ Cho ấu trùng ăn tức ăn chế biến vào ban ngày, 3 - 4 lần/ngày. Khi cho ăn, nên ngưng sục khí để ấu trùng tập trung lên mặt nước rồi rãi thức ăn từ từ xung quanh bể nơi ấu trùng tập trung để ấu trùng bắt mồi hiệu quả và tránh dơ nước. Lượng cho ăn tùy vào khả năng bắt mồi của ấu trùng. Sau khi ấu trùng ăn hết thức ăn thì mới sục khí trở lại. Thời gian cho ăn mỗi lần mất khoảng 15 - 30 phút. Tùy vào qui trình ương nuôi và cách cho ăn mà lượng thức ăn chế biến và lượng Artemia sử dụng để sản xuất 1 triệu tôm bột sẽ khác nhau. Trong mô hình nước xanh cải tiến, lượng thức ăn cần để sản xuất 1 triệu tôm bột có thể chỉ cần khoảng 20 kg thức ăn chế biến dạng ẩm và 2 - 4 kg trứng Artemia (Hải và ctv, 2002).
Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm (Phương và ctv, 2003)
3.4 Quản lý môi trường nước ương ấu trùng
- Tùy từng qui trình ương nuôi ấu trùng khác nhau mà các phương pháp quản lý nước cũng rất khác nhau.
- Thay nước và hút cặn:
+ Đối với mô hình nước trong - hở, cần thay nước bể ương hằng ngày 30 - 50% tùy giai đoạn bằng nước trong sạch. Hằng ngày, cần hút cặn đáy bể sau khi cho tôm ăn và trước khi thay nước. Cần chú ý nhiệt độ, độ mặn giữa nước cấp và nước bể ương, tránh chênh lệch lớn vì sẽ ảnh hưởng đến ấu trùng.
+ Đối với hệ thống nước trong - tuần hoàn, từ ngày thứ 4 sau khi ương ấu trùng, nên cho nước luân chuyển giữa bể ương và bể lọc sinh học. Tỷ lệ nước luân chuyển khoảng 100 - 400 % thể tích bể ương/ngày. Hệ thống bể ương cần được hút cặn 2 lần mỗi ngày.
+ Trong qui trình nước xanh, phải thay nước mới thường xuyên, nhất là khi nước dơ hay khi tảo tàn. Sau đó, bổ sung tảo mới. Trong quá trình nuôi cũng thường xuyên hút cặn để loại bỏ tảo chết và lắng ở đáy bể.Đối với qui trình nước xanh cải tiến, cơ bản, không phải thay nước, thêm tảo hay hút cặn trong suốt thời gian ương. Điều này sẽ không làm xáo động đáy bể, để tảo đáy phát triển sẽ có vai trò như lọc sinh học.
+ Mức nước bể ương nên duy trì 0,8-1m đối với hệ thống nước trong hở và nước trong tuần hoàn; và 0,6 - 0,7m đối với hệ thống nước xanh và nước xanh cải tiến.
- Quản lý các yếu môi trường nước:
+ Nhiệt độ nước là yếu tố quan trọng cần được quản lý tốt trong phạm vi 26 – 31oC. Vào ban đêm, mùa lạnh hay mùa mưa nhiều, trại nên được giữ kín. Bố trí các dụng cụ nâng nhiệt bằng điện hay nước nóng cho bể ương. Ban ngày, hay mùa nóng, cần giữ trại thoáng và mái nhà không được làm hoàn toàn bằng tole trong suốt. Cần theo dõi nhiệt độ hàng ngày lúc sáng và chiều.
+ Độ mặn nước ương nên được duy trì trong phạm vi 12 ± 2 ‰. Trong quá trình thay nước, nhất là đối với qui trình nước trong hở thì cần phải trận trọng, tránh nước mới có độ mặn chênh lệch lớn với nước ương làm sốc ấu trùng. Đối với mô hình nước xanh cải tiến và mô hình nước trong tuần hoàn do không thay nước, vì thế độ mặn có thể tăng cao dần và vượt 14 ‰ về cuối chu kỳ ương, nhất là vào những tháng nóng. Trường hợp này cần phải cấp thêm nước ngọt để điều chỉnh độ mặn xuống 10-12 ‰.
+ Nước bể ương ấu trùng nên có pH trong khoảng 7-8,5. pH không nên vượt quá 9. Trong qui trình nước xanh và nước xanh cải tiến, khi mật độ tảo quá cao có thẻ ảnh hưởng đến biến dộng lớn pH trong ngày. Cần sục khi 1 mạnh hay thay bớt nước khi nước quá xanh.
+ Ánh sáng cần thiết cho sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh. Tuy nhiên, không nên ương ấu trùng dưới ánh nắng trực tiếp. Đối với hệ thống nước trong, chỉ cần ánh sáng yếu, nhưng đối với mô hình nước xanh và nước xanh cải tiến cần ánh sánh mạnh hơn cho tảo phát triển. Cường độ ánh sáng thích hợp là 6.000 - 18.000 lux, chu kỳ chiếu sáng hàng ngày 10 - 12 giờ. Mái che có các tấm tole sáng và tối xen kẽ nhau sẽ thích hợp cho ương ấu trùng.
+ Oxy nên được duy trì trên 5 mg/l, tốt nhất là gần đạt mức bảo hòa. Trung bình, mỗi 1 m3 bể ương cần khoảng 4 viên đá bọt với tốc độ thổi khí vừa phải vừa đảm bảo Oxy, vừa giải phóng khí độc, vừa giúp phân bố ấu trùng và Artemia đều trong bể.
+ Thường xuyên theo dõi các yếu tố đạm hàng ngày và đảm bảo nitrite dưới 0,1 mg/l, nitrate dưới 20 mg/l, đạm a-môn (N-NH4+) dưới 1,5 mg/l, N-NH3 dưới 0,1 mg/l. Đối với mô hình nước trong - hở, thay nước mỗi ngày là biện pháp giữ nước ương sạch. Đối với mô hình nước trong - tuần hoàn, bể lọc sinh học hoạt động tốt sẽ ổn định được hàm lượng đạm trong phạm vi thích hợp. Trong mô hình nước xanh cải tiến, tảo và các vi khuẩn phát triển trong nước, trên vỏ Artemia và trên thành bể sẽ là yếu tố quan trọng trong việc hấp thu và tự ổn định nồng độ đạm.
+ Trong qui trình nước xanh cải tiến, sau khi bổ sung tảo vào bể ương với mật độ khoảng 0,5 - 1 triệu tế bào/ml, cơ bản không phải bổ sung thêm tảo trong suốt thời gian ương. Tảo phát triển tự nhiên trong bể trong thời gian ương nuôi và có thể đạt đến 5 - 10 triệu tế bào/ml và duy trì màu xanh đến cuối chu kỳ ương. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tảo Chlorella sẽ suy tàn, đồng thời tảo khuê sẽ phát triển, vì thế màu nước xanh sẽ dần chuyển thành màu vàng nâu. Cũng có trường hợp, sau khi tảo Chlorella suy tàn thì hệ tảo đáy sẽ phát triển. Tuy nhiên, dù tảo Chlorella, tảo khuê hay tảo đáy phát triển, chúng cũng có vai trò quan trọng như hệ thống lọc sinh học.
3.5 Chăm sóc bể ương trong giai đoạn chuyển sang tôm bột
Ấu trùng sẽ bắt đầu chuyển sang hậu ấu trùng (Postlarvae) sau 17 - 23 ngày ương và hầu hết ấu trùng chuyển sang hậu ấu trùng sau khoảng 25 - 35 ngày tùy theo điều kiện ơng. Trong giai đoạn này, cần phải đặt thêm các vật bám như các tấm lưới hay chùm nylon vào bể cho tôm bột bám nhằm hạn chế ăn lẫn nhau. Khi hầu hết ấu trùng đã chuyển sang tôm bột, cần phải hạ dần độ mặn trong khoảng 3 - 4 ngày để chuyển tôm sang nước ngọt hoàn toàn. Trong thời gian này, ngoài cho ấu trùng và tôm postlarvae ăn như giai đoạn ấu trùng giai đoạn 9 - 11, cần cho tôm ăn bổ sung các loại như trùng chỉ, moina hay thức ăn công nghiệp. Sau 30 - 35 ngày có thể thu hoạch tôm hoàn toàn để chuyển sang ương tôm giống hoặc nuôi trực tiếp lên tôm thịt.
Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh, Nguồn: Chi cục Thủy sản Cần Thơ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét